Đề tài Lý luận của C.Mác – Ph. Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và ý nghĩa của nó đối với cách mạng Việt Nam

Cách đây đúng 163 năm, tháng 2 năm 1848, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” – do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo – ra đời là một sự kiện trọng đại trong lịch sử. Với việc công bố tác phẩm được thừa nhận là một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, là “ khúc ca tuyệt tác của chủ nghĩa Mác”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đem lại cho giai cấp vô sản cách mạng toàn thế giới và chính đảng của nó một Cương lĩnh “ có đầy đủ chi tiết, vừa về mặt lý luận, vừa về mặt thực tiễn”[1;127] Với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã hoàn thành về có bản quá trình chuyển biến từ không tưởng thành khoa học.Từ đó, phong trào cách mạng vô sản có lý luận tiền phong và cương lĩnh cách mạng soi đường, chuyển từ tự phát sang tự giác. Đúng như C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định trong Tuyên ngôn: "Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau"[1;127] Trải qua bao biến cố và thăng trầm lịch sử, mặc dù các thế lực thù địch, phản động, chủ nghĩa cơ hội và xét lại luôn cấu kết với nhau tìm mọi cách chống phá, phủ nhận, nhưng tính đúng đắn và khoa học của các nguyên lý cơ bản trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Khi bàn về giá tri của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Lê nin viết: “Cuốn sách nhỏ ấy, có giá trị bằng hàng bộ sách; tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”.

doc61 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7436 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận của C.Mác – Ph. Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và ý nghĩa của nó đối với cách mạng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Lý luận của C.Mác –Ph. Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" và ý nghĩa của nó đối với cách mạng Việt Nam PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cách đây đúng 163 năm, tháng 2 năm 1848, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” – do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo – ra đời là một sự kiện trọng đại trong lịch sử. Với việc công bố tác phẩm được thừa nhận là một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, là “ khúc ca tuyệt tác của chủ nghĩa Mác”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đem lại cho giai cấp vô sản cách mạng toàn thế giới và chính đảng của nó một Cương lĩnh “ có đầy đủ chi tiết, vừa về mặt lý luận, vừa về mặt thực tiễn”[1;127] Với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã hoàn thành về có bản quá trình chuyển biến từ không tưởng thành khoa học.Từ đó, phong trào cách mạng vô sản có lý luận tiền phong và cương lĩnh cách mạng soi đường, chuyển từ tự phát sang tự giác. Đúng như C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định trong Tuyên ngôn: "Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau"[1;127] Trải qua bao biến cố và thăng trầm lịch sử, mặc dù các thế lực thù địch, phản động, chủ nghĩa cơ hội và xét lại luôn cấu kết với nhau tìm mọi cách chống phá, phủ nhận, nhưng tính đúng đắn và khoa học của các nguyên lý cơ bản trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Khi bàn về giá tri của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Lê nin viết: “Cuốn sách nhỏ ấy, có giá trị bằng hàng bộ sách; tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất hiện đánh dấu mốc ra đời của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tuyên ngôn là tiếng chuông thức tỉnh giai cấp vô sản, quần chúng cần lao bị đọa đầy đau khổ vùng dậy đấu tranh để giành quyền sống, quyền được làm người, là ngọn đèn pha soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, là tiếng kèn xung trận của giai cấp vô sản tấn công vào thành trì của chủ nghĩa tư bản. Vai trò lịch sử của chuyên chính vô sản, quyền lực chính trị của giai cấp công nhân dân là bộ phận quan trọng nhất của vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vấn đề vai trò lịch sử của giai cấp đó với tư cách là người cải tạo xã hội theo nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. Bởi vì, không thiết lập được chính quyền của mình, giai cấp công nhân không thể bảo đảm được việc chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản nhằm đạt mục tiêu giải phóng triệt để con người. Có thể nói, những luận điểm trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã soi sáng cho con đường cách mạng của giai cấp vô sản và đảng tiên phong của nó trong sự nghiệp lãnh đạo quần chúng nhân dân ở nhiều nước trên thế giới thực hiện cuộc cách mạng vô sản lật đổ giai cấp tư sản và thiết lập nền chuyên chính vô sản, xây dựng xã hội chủ nghĩa, xóa tan áp bức, bóc lột và bất công trong xã hội. Thành tựu của Cách mạng Tháng Mười Nga, Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam và những thành công của các cuộc cách mạng vô sản cách mạng khác đã minh chứng tính đúng đắn, tính khoa học của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Hơn 80 năm qua, cách mạng Việt Nam luôn trung thành với những tư tưởng vĩ đại của Tuyên ngôn. Cách mạng Việt Nam càng phát triển đi lên càng khẳng định những nguyên lý cơ bản của Tuyên ngôn. Tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, của Tuyên ngôn nói riêng, luôn là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam. Đó là lý do em chọn đề tài “ Lý luận của C.Mác –Ph. Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" và ý nghĩa của nó đối với cách mạng Việt Nam”, làm nội dung tiểu luận kết thúc học phần môn Các tác phẩm kinh điển I. Trong quá trình nghiên cứu em đã cố gắng rất nhiều nhưng không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô để bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn. Qua đây, cho em gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm khoa và các thầy cô trong khoa đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu Bàn về tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói chung được rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến, rất nhiều cuốn sách, bài báo, tạp chí,… Chẳng hạn như: GS. Viện sĩ. Nguyễn Duy Quý: “Những tư tưởng Chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác và Ăng ghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”- Tạp chí Phát triển nhân lực (số 1- 2008); Tạ Ngọc Tấn: “Từ tư tưởng giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đến mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” – Tạp chí Cộng sản số 784(2 – 2008); GS. Nguyến Đức Bình: “Sống mãi tư tưởng vĩ đại của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” – Tạp chí Lý luận Chính trị (1- 2008); Ths. Trần Thị Kim Cúc: Góp phần nghiên cứu giá trị và sức sống trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008… 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận của các nhà kinh điển về vấn đề chuyên chính vô sản trong tác phẩm. Từ đó, đề tài đi sâu vào phân tích quá trình vận dụng của cách mạng Việt Nam qua từng giai đoạn của lịch sử. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài xin được trình bày sơ lược về tiểu sử, sự nghiệp của Mác – Ăngghen và làm rõ vấn đề chuyên chính vô sản trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Từ đó chỉ ra nghiên cứu tác phẩm có ý nghĩa gì với cách mạng Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Lý luận của C.Mác và Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” và ý nghĩa của nó đối với cách mạng Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Quan điểm của C. Mác – Ph. Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của C.Mác và Ăngghen. Sự vận dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu Tiểu luận sử dụng chủ yếu các phương pháp: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp. 6. Kết cấu tiểu luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung tiểu luận gồm:  2 chương Chương 1: Lý luận của C. Mác – Ph.Ăngghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” Chương 2: Ý nghĩa lý luận Chuyên chính vô sản của C. Mác – Ph.Ăngghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đối với cách mạng Việt Nam. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA C.MÁC – PH. ĂNGGHEN VỀ CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” 1.1 Khái quát về tác giả và tác phẩm 1.1.1 Tiểu sử C. Mác – Ph.Ăngghen 1.1.1.1 Các Mác (5/5/1818 – 14/3/1883) Các Mác sinh ngày mồng 5 tháng 5 năm 1818 ở Tơ-ri-vơ thuộc nước Phổ. Cha của Mác là luật sư. Sau khi tốt nghiệp trung học, Mác vào học đại học tổng hợp ở Bon, rồi sau đó học ở trường đại học tổng hợp Béc-lanh. Mác học luật, lịch sử và triết học. Tháng 10 năm 1842, Mác trở thành chủ bút của Báo Rê-na-ri của giai cấp tư sản cấp tiến ở Đức hồi ấy. Trong các bài báo, Mác đã phê phán các chính phủ đương thời ở Đức, Anh, Pháp và bênh vực quyền lợi của nông dân, phát biểu những tư tưởng triết học của mình.Thời kỳ này, Mác đang chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản. Tháng 6-1843, Mác kết hôn với Gienni Phôn Vextơphalen, người bạn gái hồi nhỏ của mình. Tháng 10-1843, Mác đến ở Pa-ri, thủ đô nước Pháp, tiếp tục viết báo. Tháng 9-1844, Mác gặp Ăng-ghen ở Pa-ri. Tình bạn vĩ đại và cuộc đấu tranh chung của hai người cho sự nghiệp của giai cấp công nhân bắt đầu từ đấy. Mác và Ăng-ghen tích cực tham gia sinh hoạt với các nhóm cách mạng ở Pa-ri, hai ông đấu tranh quyết liệt chống mọi thứ học thuyết của chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản và đã sáng lập ra lý luận và sách lược của chủ nghĩa xã hội vô sản cách mạng, hay là chủ nghĩa cộng sản. Năm 1845, Mác bị trục xuất khỏi Pa-ri vì bị coi là một nhà cách mạng nguy hiểm. Mác sang ở Bruy-xen, thủ đô nước Bỉ. Mùa xuân 1847, Mác và Ăng-ghen gia nhập Liên minh những người cộng sản. Đó là tổ chức đầu tiên mang tính chất quốc tế của phong trào công nhân, gồm nhiều nhà lãnh đạo của các hội công nhân ở Đức, Anh, Pháp, Bỉ, Hung-ga-ri, Ba-lan, v.v… Theo yêu cầu của Đại hội lần thứ hai của Liên minh họp tháng 11-1847 ở Luân-đôn, thủ đô nước Anh, Mác và Ăng-ghen thảo bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, xuất bản tháng 2 năm 1848. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là văn kiện đầu tiên có tính chất cương lĩnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Năm 1848, Mác bị trục xuất khỏi nước Bỉ và về ở Pa-ri, rồi về ở Đức, xuất bản tờ Báo Rê-na-ni mới. Bị truy tố trước tòa án, Mác lại bị trục xuất và sang ở Pa-ri. Tháng 6-1849, Mác lại bị trục xuất khỏi Pa-ri và sang ở Luân-đôn cho đến khi mất. Ở Luân-đôn, Mác viết các tác phẩm tổng kết kinh nghiệm các cuộc đấu tranh cách mạng ở Pháp từ 1848 đến 1851, các tác phẩm về triết học, về chính trị kinh tế học. Năm 1867, quyển đầu tiên của bộ Tư bản ra đời. Bộ Tư bản nêu ra lý luận về sự phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản; nó chứng minh bằng lý luận hết sức chặt chẽ và chính xác "lịch sử đẫm máu của chủ nghĩa tư bản", sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản. Bộ Tư bản xây dựng cơ sở lý luận khoa học cho chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội từ chỗ là "chủ nghĩa xã hội không tưởng" của các nhà tư tưởng trước Mác trở thành "chủ nghĩa xã hội khoa học". Bộ Tư bản là ngọn đèn pha soi sáng cho cách mạng vô sản thế giới, vũ trang cho giai cấp vô sản lý luận và niềm tin không gì lay chuyển nổi về sứ mệnh lịch sử của mình, về sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Cùng với Tuyên ngôn của Đảng cộng sản bộ Tư bản là bộ sách gối đầu giường của những người vô sản giác ngộ. Mác không chỉ là nhà lý luận thiên tài mà trước hết, Mác là nhà cách mạng vĩ đại. Trước phong trào công nhân đang lên, Mác ra sức hoạt động thực tiễn. Năm 1864, ở Luân-đôn thành lập Hội liên hiệp quốc tế những người lao động, tức Quốc tế thứ nhất. Mác là người cổ vũ và lãnh đạo chủ chốt của Quốc tế thứ nhất. Mác đấu tranh chống các thứ chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân, chống bọn vô chính phủ và định ra sách lược cách mạng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Cuộc đời chiến đấu quyết liệt và không mệt mỏi chống mọi kẻ thù của giai cấp vô sản, chống lại các thứ trào lưu tư tưởng không vô sản và chống vô sản, sự làm việc rất khẩn trương mà công tác lý luận đòi hỏi, sự nghèo khổ của cuộc sống lưu vong cộng với bệnh tật và những đau thương trong gia đình làm cho sức khỏe của Mác ngày càng suy yếu. Ngày 2 tháng 12 năm 1881, Gienni mất. Đến ngày 14 tháng 3 năm 1883, Mác yên giấc nghìn thu trên chiếc ghế bành, trước bàn làm việc. Trong bức thư báo tin buồn cho bạn, Ăng-ghen viết: "Thế là cái trí tuệ mạnh mẽ nhất của Đảng ta đã ngừng suy nghĩ, trái tim mạnh mẽ nhất mà tôi chưa từng thấy đã ngừng đập mất rồi". Và khi đọc điếu văn trước mộ Mác, Ăng-ghen nói: "Con người ấy mất đi, thật không sao có thể lường cho hết tổn thất đối với giai cấp vô sản chiến đấu của châu Âu và châu Mỹ, tổn thất đối với khoa học lịch sử. Không bao lâu, chúng ta sẽ cảm thấy nỗi trống trải sau cái chết của bậc vĩ nhân ấy". Ca ngợi tình bạn vĩ đại, mối quan hệ khăng khít, bền lâu giữa Mác với Ăng-ghen, Lê-nin viết: "Chuyện cổ kể lại những tấm gương rất cảm động về tình bạn. Nhưng giai cấp vô sản châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình đã do hai nhà bác học và chiến sĩ ấy sáng tạo ra, những quan hệ cá nhân giữa hai người đã vượt tất cả những chuyện cổ cảm động nhất của người xưa nói về tình bạn" (Mác - Ăng-ghen, chủ nghĩa Mác). Từ lúc còn trẻ, hai người đã có sự thống nhất chặt chẽ về tư tưởng và tình cảm, thường cùng làm việc với nhau mỗi khi ở gần nhau. Sau khi cuộc cách mạng 1848 ở Đức bị thất bại, Ăng-ghen phải đến làm việc ở Mansextơ, một thành phố công nghiệp của Anh lấy tiền giúp đỡ gia đình Mác. Còn Mác thì ở Luân-đôn. Trong ngót hai mươi năm trời xa nhau, mỗi ngày hai người đều viết cho nhau những ý nghĩ của mình về những sự biến chính trị và khoa học đương thời, cùng nhau trao đổi công việc. Mác rất tự hào về Ăng-ghen, về đạo đức và tài trí của Ăng-ghen. Một mối tình sâu sắc đã gắn bó Mác với Gienni. Hai người biết nhau từ lúc còn nhỏ, cùng lớn lên bên nhau. Lúc đính hôn, Mác mới 17 tuổi. Sau bảy năm đợi chờ, hai người lấy nhau và từ đấy không bao giờ rời nhau trong cuộc đời xông pha bão táp, trong những năm tháng lưu vong, nghèo túng. Đức dịu hiền và lòng trung thành của Gienni đã an ủi cuộc đời sóng gió của Mác. Bà rất yêu mến phong trào công nhân. Cho đến lúc chết, bà vẫn tin theo chủ nghĩa cộng sản. Mác là một người cha hiền từ, dịu dàng và rộng lượng. Các con rất  yêu quý Mác. Mác có ba người con gái và hai con trai. Cái chết non của con gái đầu lòng và hai con trai làm cho Mác đau buồn ghê gớm và mất sức đi nhiều. Mộ của Mác, cũng là mộ gia đình Mác, ở trên một ngọn đồi phía bắc thành phố Luân-đôn. Mác vĩnh viễn yên nghỉ ở đấy. Mác đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của Mác đã hòa hợp một cách hữu cơ những đặc điểm của một nhà bác học vĩ đại, một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi, một người phát hiện đầu tiên những chân lý khoa học, một nhà chính luận cách mạng nồng nhiệt, một nhà chiến lược và sách lược vô sản sáng suốt, một nhà lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng vô sản. Mác nổi bật về đức tính cao cả của con người, giản dị, nhiệt tình và yêu đời, có ý chí bất khuất và năng lực lao động khác thường, can đảm và anh dũng. Đó là một cuộc đời đầy gian khổ nhưng vô cùng xán lạn, một mẫu mực về tính khoa học và tình cảm cách mạng cao cả. Cuộc đời và hoạt động của Mác đã đi vào lịch sử nhân loại với vị trí nổi bật trong hàng ngũ những vĩ nhân, đúng như Ăng-ghen nói: "Tên tuổi Người, sự nghiệp của Người sống mãi nghìn thu!". 1.1.1.2 Ph. Ăngghen(28/11/1820 – 5/8/1895). Ph.Ăng-ghen sinh ngày 28-11-1820 tại Bác-men, tỉnh Ranh của Vương quốc Phổ (thuộc nước Đức ngày nay). Tuy xuất thân từ một gia đình tầng lớp trên, thuộc giai cấp tư sản, nhưng Ph.Ăngghen đã dành tất cả con tim, khối óc, tình cảm và trí tuệ cho giai cấp vô sản, hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhằm mục tiêu, lý tưởng cao đẹp là giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi ách áp bức, bóc lột.. Từ nhỏ Ph. Ăngghen đã bộc lộ tính cách độc lập. Những lời dạy nghiêm khắc của cha và những sự đe dọa trừng phạt không làm ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Cho đến năm 14 tuổi, Ph.Ăngghen học trường tại thành phố Barmen. Ph. Ăngghen sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng 10/1834 ông chuyến sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ lúc bấy giờ. Năm 1837 theo yêu cầu của bố, ông buộc phải rời bỏ trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phòng của bố ông. Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6/1838 Ph. Ăngghen đến làm việc văn phòng thương mại ở thành phố cảng Barmen. Cuối năm 1839 ông bắt đầu nghiên cứu các tác phẩm của Hê – ghen. Tháng 9/1841 P. Ăngghen đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo binh ở đây ông được huấn luyện quân sự, mà trong những năm sau ông rất cần đến nó, nhưng ông vẫn lui tới trường Đại học Tổng hợp Becrlin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về tôn giáo. Mùa xuân 1842 Ph.Ăngghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinishe Zuiting(Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in 1842, trên tờ báo Ph.Ăngghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8/10/1842 ông đã mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Becrlin ông trở về Barmen, một tháng sau, ông đã sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh, Ph.Ăngghen đã thăm trụ sở tờ báo Rheinishe Zuiting ở Kioln và ông đã gặp C. Mác, tổng biên tập tờ báo. Ông đã ở lại Anh 2 năm. Tháng 2 năm 1845 cuốn sách “Gia đình và thần thánh” của C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi tiếng “Hệ tư tưởng Đức” (1845 – 1846), tiếp đó năm 1848 Đại hội II Liên đoàn những người Cộng sản đã ủy nhiệm C. Mác và Ph. Ăngghen cùng viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Trong thời gian sống ở Pari, Ph. Ăngghen quan tâm nhiều đến hoạt động của BCH Trung ương Liên đoàn những người Cộng sản và trở thành Ủy viên của Ban lãnh đạo, là một trong những người lãnh đạo câu lạc bộ công nhân Đức (3/1848) do BCH Trung ương LĐ những người Cộng sản lập ra. Tháng 4/1848, ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức. Tháng 10/1848 ông đã đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng không được phép cứ trú chính trị, ông đã đến Pari sau đó sang Thụy Sĩ tham gia Đại hội các Liên đoàn công nhân Đức, ông được bầu vào Ủy ban Trung ương của tổ chức này. Tháng 1/1849, ông trở vể Đức và tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (5/1849), Ph. Ăngghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, ông đến Elberfeld và được bổ sung vào Ban quân sự. Trong thời kỳ này ông đã tham gia trực tiếp 4 trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này ông đã viết trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng. Tháng 11 năm 1850, Ph. Ăngghen buộc phải chuyển đến Manchester và lại bắt đầu làm việc ở văn phòng thương mại. Tháng 09 năm 1870, Ph. Ăngghen đến London và được đưa vào Tổng Hội đồng của Quốc tế Cộng sản I. Năm 1871, Ph. Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Pari. Trong thời gian này, Ph. Ăngghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Duyrinh (1878) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện chủ nghĩa Mác. Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăngghen là người lãnh đạo Tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu, chuẩn bị cho tập 2 và 3 của Bộ Tư bản mà C.Mác chưa kịp hoàn thành. Ngày 14/7/1889 ở Pari Quốc tế cộng sản II ra đời là liên minh quốc tế các đảng công nhân. Dưới sự lãnh đạo của ông, Quốc tế cộng sản II có nhiều đóng góp quan trọng vào việc phát triển phong trào công nhân thế giới. Năm 1895 khi ông mất những người theo chủ thuyết chống lại học thuyết Marx như K.Kautsky, E.Bernstein dần chiếm ưu thế trong Quốc tế II. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức nên Quốc tế cộng sản II tan rã khi chiến tranh thế giới I bùng nổ. Ph. Ăngghen còn viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời : Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước ( 1884); Biện chứng của tự nhiên  (1884); Lútvít Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức ( 1886 – 1888); Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894)... 1.1.2 Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” Vào đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở nước Anh, được đẩy mạnh ở Pháp và các nước Tây Âu khác. Lực lượng sản xuất đã phát triển hơn giai đoạn trước rất nhiều. Đặc biệt từ những năm 40 của thế kỷ XIX quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa ở nhiều nước đã trở thành quan hệ sản xuất thống trị, làm cho mâu thuẫn nội tại trong phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa tăng lên không ngừng. C.Mác là người sớm tìm đến với chủ nghĩa duy vật, từ khi đến Pháp năm 1843 trở đi, ở C.Mác đã hình thành những quan điểm có tính hệ thống về chủ nghĩa xã hội khoa học. Ông đã sống và tắm mình trong phong trào công nhân những năm 30 và 40 của thế kỉ XIX. Bắt đầu từ giữa thế kỉ XIX trở đi, chủ nghĩa tư bản châu Âu đã có những bước tiến đáng kể sau khi tiến công dinh lũy của chế độ phong kiến. Xã hội tư bản lúc ấy là xã hội tư bản đang lên ở nước Anh, cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành cơ bản. Tiếp đó là ở Pháp và một số nước khác, cuộc cách mạng công nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ sở kinh tế - xã hộ