Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể. Có được những thành công đó chính là do đường lối đổi mới kinh tế đúng đắn của Đảng ta đề ra trong hơn10 năm qua, mà trong đó có sự đóng góp không nhỏ của việc thu hút vốn tạo cho nền kinh tế đạt được những thành tựu vượt bậc: 5 năm liên tục tăng trưởng GDP hàng năm trung bình 8%, lạm phát kiềm chế từ 3 số còn 1 số.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công chúng ta cũng đang phải đương đầu với những khó khăn to lớn. Bởi vì để xây dựng thành công một nền kinh tế mới, nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần một khối lượng vốn đầu tư khổng lồ từ nhiều nguồn khác nhau. Dự kiến chúng ta sẽ huy động một nửa từ các nguồn vốn nước ngoài và phần còn lại sẽ huy động từ các nguồn vốn trong nước. Mối quan hệ giữa nguồn lực trong nướcvà ngoài nước đã được thể hiện rất rõ trong nghị quyết kinh tế ( tháng12 năm 1997 ) của Hội nghị lần IV Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ( khoá VIII ), đó là dựa vào: “nguồn lực trong nước là chính đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế theo hướng càng phát huy nội lực mạnh thì càng khai thác được nhiều khả năng bên ngoài ”. Hiện nay nguồn lực trong nước là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong công cuộc phát triển kinh tế và vì vậy việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp mang tính khả thi để khai thác có hiệu quả nguồn vốn trong nước đang là vấn đề bức thiết hiện nay.
42 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2289 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận về tuần hoàn và chu chuyển tư bản áp dụng vào doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề tài: lý luận về tuần hoàn và chu chuyển tư bản áp dụng vào doanh nghiệp ở Việt Nam
Lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể. Có được những thành công đó chính là do đường lối đổi mới kinh tế đúng đắn của Đảng ta đề ra trong hơn10 năm qua, mà trong đó có sự đóng góp không nhỏ của việc thu hút vốn tạo cho nền kinh tế đạt được những thành tựu vượt bậc: 5 năm liên tục tăng trưởng GDP hàng năm trung bình 8%, lạm phát kiềm chế từ 3 số còn 1 số.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công chúng ta cũng đang phải đương đầu với những khó khăn to lớn. Bởi vì để xây dựng thành công một nền kinh tế mới, nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần một khối lượng vốn đầu tư khổng lồ từ nhiều nguồn khác nhau. Dự kiến chúng ta sẽ huy động một nửa từ các nguồn vốn nước ngoài và phần còn lại sẽ huy động từ các nguồn vốn trong nước. Mối quan hệ giữa nguồn lực trong nướcvà ngoài nước đã được thể hiện rất rõ trong nghị quyết kinh tế ( tháng12 năm 1997 ) của Hội nghị lần IV Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ( khoá VIII ), đó là dựa vào: “nguồn lực trong nước là chính đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế theo hướng càng phát huy nội lực mạnh thì càng khai thác được nhiều khả năng bên ngoài ”. Hiện nay nguồn lực trong nước là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong công cuộc phát triển kinh tế và vì vậy việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp mang tính khả thi để khai thác có hiệu quả nguồn vốn trong nước đang là vấn đề bức thiết hiện nay.
Với ý nghĩa đó , em đã chọn đề tài này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do trình độ có hạn, bài viết của em còn có nhiều thiếu sót. Vì vậy em mong được sự phê bình và góp ý của các thầy, cô giáo trong khoa. Cuối cùng em xin cám ơn thầy giáo Phạm Thành đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này
nội dung
A/. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
A1. Sự vận động của tư bản ( TB) qua 3 giai đoạn
Quá trình tuần hoàn của TB qua 3 giai đoạn, các giai đoạn đó là:
* Giai đoạn thứ nhất : Nhà tư bản với tư cách là người mua xuất hiện trên thị trường hàng hoá và thị trường lao động , tiền của hắn chuyển hoá thành hàng hoá hay thông qua hành vi lưu thông T- H.
* Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản đã tiêu dùng những hàng hoá hắn đã mua. Hắn hoạt động với tư cách là người sản xuất hàng hó a tư bản chủ nghĩa , tư bản của của hắn thực hiện quá trình sản xuất . Kết quả là có một hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị của các yếu tố sản xuất ra hàng hoá đó .
* Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán, hàng hoá của nhà tư bản đó chuyển thành tiền , hay thực hiện hành vi lưu thông hàng- tiền.
Bởi vậy , công thức : T- H... SX...H’- T’, đường chấm chỉ ra rằng quá trình lưu thông bị đứt quãng , còn H’ và T’ là H- T đã tăng thêm giá trị thặng dư.
1) Giai đoạn 1:
Tiền ( T) – Hàng ( H): Biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất (TBSX) giai đoạn này biến tiền tệ thành hàng hoá: T- H . Đối với người mua , đó là biến tiền tệ thành hàng hoá. Còn đối với người bán, thì đó là biến hàng hoá thành tiền. Đó là một hành vi lưu thông hàng hoá thông thường . Nhưng nếu nhì vào nội dung vật vhất của việc mua bán đó , thì sẽ thấy tính chất tư bản chủ nghĩa của nó.
Hàng hoá mua bán là những loại hàng hoá nhất định, tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là những nhân tố của sản xuất. Quá trình mua bán đó có thể biểu diễn thành:
SLĐ ( Sức lao động)
T- H <
TLSX ( Tư liệu sản xuất)
Hàng hoá, một mặt là tư liệu sản xuất và mặt khác là sức lao động, tức là những nhân tố vật và người của sản xuất hàng hoá, những nhân tố mà đặc tính đương nhiệm phải thích hợp với loại sản phẩm cần chế tạo. Nếu chúng ta dùng SLĐ để chỉ sức lao động và TLSX để chỉ TLSX thì số hàng hoá cần mua sẽ biểu thị thành : H = SLĐ + TLSX, hay
SLĐ
H <
TLSX
Do đó, xét về nội dung , T- H biểu hiện thành
SLĐ
T- H <
TLSX
Nghĩa là T- H phân thành T- SLĐ và T – TLSX, số tiền T chia làm hai phần: Một phần mua SLĐ, còn phần kia mua TLSX. Hai hoạt động mua ấy, diễn ra ở hai thị trường hoàn toàn khác nhau, một loạt ở thị trường hàng hoá theo đúng nghĩa của nó, còn một loạt ở thị trường lao động. Nhưng ngoài sự phân chia về chất ấy của số hàng hoá do T chuyển hoá thành , thì
SLĐ
T- H <
TLSX
Còn biểu thị một quan hệ về lượng có tính chất đặc trưng.
Giá trị hay giá cả của sức lao động trả cho người sở hữu sức lao động đó- người này đem bán sức lao động như bán hàng hoá- dưới hình thái tiền công , nghĩa là được trả giá cả của một số lao động chứa đựng cả lao động thặng dư. Do đó ,
SLĐ
T- H < Không những không phải chỉ nói lên sự chuyển
TLSX
hoá của một số tiền nhất định nó còn biểu thị một quan hệ về chất lượng giữa các phần tiền bỏ ra mua sức lao động SLĐ và mua tư liệu sản xuất TLSX
Khi hành vi
SLĐ
T- H <
TLSX
đã hoàn thành , người mua không những chi phối được tư liệu sản xuất và sức lao động cần thiết để sản xuất ra một vật phẩm có ích mà còn chi phối được một sức lao động đang hoạt động hay một lao động lớn hơn mức cần thiết để hoàn lại giá trị của sức lao động, đồng thời người mua còn có những tư liệu sản xuất cần thiết để thực hiện, để vật hoá số lao động ấy.
Do đó nhà tư bản chi phối được những nhân tố để sản xuất ra những vật phẩm có một giá trị lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất ra những vật phẩm ấy, hay là nhà tư bản chi phối được những nhân tố để sản xuất ra một khối lượng hàng hoá chứa đựng giá trị thặng dư. Như vậy các giá trị do hắn ứng ra dưới hình thái hiện vật, khiến cho giá trị đó có thể tự thực hiện thành giá trị đẻ ra giá trị thặng dư ( dười hình thái hàng hoá), Nói một cách khác , gía trị đó tồn tại dưới dạng hình thái hay dưới hình thái tư bản sản xuất, tư bản này có đặc tính hoạt động như một kẻ tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Chúng ta hãy gọi tư bản tồn tại dưới hình thái ấy là sản xuất.
Giá trị của SX = giá trị của SLĐ + TLSX = T đã được chuyển hoá thành SLSS và TLSX. T cũng chỉ là một giá trị tư bản giống như SX thôi. Nhưng T có một phương thức tồn tại khác : đó là giá trị – TB dưới trạng thái tiền hoặc dưới hình thái tiền. Đó là tư bản tiền tệ.
Vì vậy , hành vi SLĐ
T- H <
TLSX
hay dưới hình thái chung của nó là T- H nghĩa là tổng số những hành vi mua hàng hoá, vốn là hành vi lưu thông chung của hàng hoá, là giai đoạn của quá trình tuần hoàn độc lập của tư bản , đồng thời cuãng là sự chuyển hoá của giá trị tư bản từ hình thái tiền tệ của nó thành hình thái sản xuất của nó, hay nói vắn tắt hơn là sự chuyển hoá của tư bản – tiền tệ thành tư bản sản xuất. Như vậy trong hình thái tuần hoàn , tiền biểu hiện ra thành cái thứ nhất mang giá trị tư bản và vì vậy, tư bản – tiền tệ là hình thái dưới đó tư bản ứng ra.
Giá trị tư bản trong trạng thái tiền cũng chỉ có thể đảm nhiệm được những chức năng của tiền thôi, ngoài ra không đảm nhiệm chức năng nào khác. Cái làm cho những chức năng ấy trở thành những chắc năng của tư bản, đó là vai trò nhất định của chúng trong sự vận động của tư bản, và do đó, là mối liên hệ giữa giai đoạn trong đó những chức năng ấy xuất hiện, với các giai đoạn kác của tuần hoàn của tư bản.
Một phần tiền , đảm nhiệm chức năng tư bản – tiền tệ trong hành vi
SLĐ
T- H <
TLSX
do hoàn thành chính ngay sự lưu thông ấy mà chuyển sang đảm nhiệm một chức năng trong đó tính chất tư bản của nó biến mất , mà chỉ còn lại tính chất tiền tệ của nó. Lưu thông của tư bản - tiền tệ T phân ra thành T- TLSX và T- SLĐ là hành vi mua TLSX và mua SLĐ. Về phía nhà tư bản, T- SLĐ là mua sức lao động, về phía người công nhân, kẻ sử hữu sức lao động thì T- SLĐ là bán sức lao động. Cái đối với người mua là T – H ( = T- SLĐ) ,cũng như mọi trường hợp mua , đối với người bán ( người công nhân ) nó là SLĐ - T ( = H- T) là bán sức lao động của anh ta . Đó là giai đoạn lưu thông thứ nhất hay là lần chuyển hoá thứ nhất của hàng hoá, về phía người bán lao động, đó là sự chuyển hoá hàng hoá của hàng hoá của anh ta thành hình thái tiền tệ. Do đó, toàn bộ lưu thông của hàng hoá của anh ta biểu hiện thành SLĐ- T –H tức là thứ nhất SLĐ - T ( = H -T) và thứ hai, T- H : đó là hình thái chung của lưu thông hàng hoá giản đơn của hàng hoá H- T- H , trong đó tiền chỉ xuất hiện làm phương tiện lưu thông nhất thời , làm vật môi giới đơn thuần trong việc trao đổi hàng hoá lấy hàng hoá.
T- SLĐ là yếu tố đặc trưng trong sự chuyển hoá tư bản – tiền tệ thành tư bản sản xuất, vì đó là điều kiện căn bản để cho giá trị ứng ra dưới hình thái tiền được thực tế chuyển hoá thành tư bản , thành giá trị đẻ ra giá trị thặng dư. Hành vi T- SLĐ nói chung được coi là đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa , Dưới hình thái tiền công, lao động được mua bằng tiền. Do đó, một khi sức lao động đã tồn tại trên thị trường với tư cách là hàng hoá của người sở hữu nó , hơn nữa việc bán hàng hoá đó được tiến hành dưới hình thái trả tiền cho lao động, dưới hình thái tiền công, thì việc mua và bán sức lao động không có gì đặc biệt đáng chú ý so với việc mua và bán bất cứ hàng hoá nào khác, Cái đặc trưng ở đây không phải là ở chỗ có thể mua hàng hoá- sức lao động mà là ở chỗ sức lao động xuất hiện thành hàng hoá.
SLĐ
Do hành vi T- H <
TLSX
tức là do sự chuyển hoá của tư bản – tiền tệ thành tư bản sản xuất , nhà tư bản kết hượp được những nhân tố vật và người của sản xuất với nhau, chừng nào mà những nhân tố ấy đều là những hàng hoá. Nếu như tiền chuyển hoá lần đầu tiên thành tư bản sản xuất, hay lần đầu tiên hoạt động làm tư bản tiền tệ đối với người sở hữu nó , thì trước hết người này phải mua những tư liệu sản xuất như nhà xưởng máy móc... trước khi mua sức lao động, bởi vì trước khi sức lao động nằm dưới sự chi phối của nhà tư bản, thì tư liệu sản xuất phải có sẵn để hắn có thể dùng được sức lao động làm sức lao động.
Còn về phía người công nhân thì anh ta chỉ có thể đem ứng dụng sức lao động của anh ta vào sản xuất khi nào sức lao động đó kết hợp với tư liệu sản xuất, sau khi được bán đi . Vậy là trước khi bán , sức lao động của anh ta tồn tại tách rời với tư liệu sản xuất, với những điều kiện vật của việc ứng dụng sức lao động đó. Một khi do bị đem bán đi mà sức lao động kết hợp với tư liệu sản xuất, thì nó trở nên một bộ phận cấu thành của tư bản sản xuất trong tay người mua nó, cũng như tư liệu sản xuất vậy.
Như vậy, thực chất của vấn đề làm cơ sở cho hành vi SLĐ
T- H <
TLSX
là sự phân phối : không phải sự phân phối theo nghĩa thông thường, như phân phối tư liệu tiêu dùng, mà là sự phân phối những yếu tố của bản thân sản xuất hưn nữa những yếu tố vật thì tập trung ở 1 bên, còn sức lao động thì ở bên khác, tách rời những yếu tố vật ấy.
Do đó trước khi hành vi T- SLĐ có thể trở thành một hành vi xã hội phổ biến thì tư liệu sản xuất, phải đối diện với người lao động với tư cách là tư liệu sản xuất, là tư bản cho nên đã giả thiết có tư bản dười hình thái tư bản sản xuất và do đó giả thiết có hình thái tuần hoàn của tư bản sản xuất.
2) Giai đoạn 2:
SLĐ
T- H < .... SX... H’
TLSX
Tuần hoàn của tư bản xem xét ở đây bắt đầu bằng hành vi lưu thông T- H, tức là sự chuyển hoá của hàng hoá của tiền thành hàng hoá, là mua vào. Do đó, lưu thông này cần được bổ sung bằng sự chuyển hoá hình thái ngược lại, H –T, tức là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền là bán ra. Do sự chuyển hoá của tư bản- tiền tệ thành tư bản sản xuất, giá trị tư bản mang một hình thái hiện vật trong đó nó không thể tiếp tục lưu thông được nữa mà phải đi vào tiêu dùng, cụ thể là đi vào tiêu dùng sản xuất.Việc tiêu dùng sức lao động, tức là lao động chỉ có thể thực hiện được trong quá trình lao động thôi. Nhà tư bản không thể đem công nhân không phải là nô lệ của nhà tư bản và nhà tư bản chỉ mua quyền sử dụng sức lao động của người công nhân trong một thời gian nhất định thôi. Mặt khác , nhà tư bản chỉ có thể sử dụng ( những tư liệu sản xuất với tư cách là những nhân tố) sức lao động bằng cách bắt sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất với tư cách là nhân tố hàng hoá. Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ nhất là bước vào giai đoạn thứ hai, giai đoạn sản xuất của tư bản.
Sự vận động đó được biểu hiện bằng công thức này chỉ ra rằng lưu thông cuả tư bản bị gián đoạn, những quá trình tuần hoàn của tư bản vẫn tiếp tục, vì nó đi từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản xuất. Do đó giai đoạn thứ nhất, sự chuyển hoá của tư bản- tiền tệ thành tư bản sản xuất , chỉ là giai đoạn đi trước và mở đầu cho giai đoạn thứ hai, tức là cho sự hoạt động của tư bản sản xuất.
SLĐ
Hành vi T- H <
TLSX
giả định rằng cá nhân hoàn thành hành vi ấy không những chi phối được những giá trị dưới hình thái sử dụng nào đó, mà còn những giá trị ấy dưới hình thái tiền , giả định rằng cá nhân đó là người sử hữu tiền . Nhưng hành vi ấy chính lại là hành vi bỏ tiền ấy ra và cá nhân đó vẫn là kẻ sở hữu tiền, chỉ trong chừng mực tiền quay trở về tay nhà tư bản nhà bản thân hành vi bỏ tiền ra. Nhưng tiền chỉ có thể quay trở về tay nhà tư bản thông qua việc bán hàng hoá thôi. Do đó hành vi ấy giả định nhà tư bản là kẻ sản xuất hàng hoá.
T- SLĐ người công nhân làm thuê chỉ sống bằng cách bán sức lao động. Việc duy trì sức lao động đó – tức là sự tự duy trì của công nhân- đòi hỏi phải có sự tiêu dùng hàng ngày. Do đó, việc trả công cho người công nhân phải luôn luôn lắp lại trong thời gian tương đối ngắn để anh ta có thể lắp lại việc mua các thứ cần thiết cho sự duy trì của anh ta tức là lắp lại hnàh vi SLĐ - T –H hay H- T –H. Do đó, nhà tư bản phải luôn luôn đối diện với người công nhân với tư cách là nàh tư bản tiền tệ. Nhưng mặt khác, để cho đông đảo những người sản xuất trực tiếp , tức là những người công nhân làm thuê, có thể hoàn thành hành vi SLĐ- T- H thì các tư liệu sinh hoạt cần thiết phải luôn luôn đối diện với họ dưới hình thái có thể mua được, tức là dưới hình thái hàng hoá . Tình hình đó đòi hỏi sự lưu thông của sản phẩm dưới hình thái hàng hoá phải đạt đến một trình độ cao rồi , và do đó , cũng đòi hỏi một quy mô sản xuất hàng hoá rộng lớn. Khi sản xuất dựa vào lao động làm thuê trở thành hình thái sản xuất phổ biến. Và khi giả định rằng sản phẩm hàng hoá trở thành phổ biến thì về phía nó , nó lại đòi hỏi một sự phân công lao động xã hội ngày càng tăng một sản phẩm do mỗi một nhà tư bản nhất địng sản xuất ra hàng hoá, đòi hỏi những quá trình sản xuất bổ sung cho nhau ngày càng được chia thành những quá trình độc lập. Cho nên, T – SLĐ càng phát triển bao nhêiu thì T- TLSX cũng phát triển bấy nhiêu , nghĩa là viẹc sản xuất ra tư liệu sản xuất cuãng tách rời bấy nhiêu cới việc sản xuất ra hàng hoá dùng tư liệu sản xuất ấy làm ra tư liệu sản xuất, còn bản thân tư liệu sản xuất thì lại đối diện với mỗi một người sản xuất hàng hoá với tư cách là những hàng hoá mà họ không tư sản xuất ra, nhưng lại mua về để dùng vào một quá trình sản xuất nhất định của mình. Những tư liệu sản xuất ấy được làm ra từ nhiều ngành sản xuất hoàn thành tách rời với ngành sản xuất của người đó và được kinh doanh một cách độc lập- những tư liệu sản xuất ấy đi vào ngành sản xuất của người đó với tư cách là hàng hoá, do đó cần phải thông qua hành vi mua. Các điều kiện vật của sản xuất hàng hoá ngày càng đối diện với người sản xuất với tư cách là sản phẩm của những người sản xuất hàng hoá khác với tư cách là hàng hoá, Và cũng theo mức độ ấy mà nhà tư bản nhất định phải xuất hiện với tư cách là nhà tư bản tiền tệ, nói một cách khác là cũng theo mức độ ấy mà địa bàn trong đó tư bản của hắn nhất định phải làm chức năng tư bản tiền tệ được mở rộng ra.
Dù hình thái xã hội của sản xuất là những hình thái nào chăng nữa, thì người lao động và tư liệu sản xuất bao giờ cũng vẫn là nhân tố của sản xuất. Nhưng chừng nào còn bị tách rời nhau, thì cả hai cũng vẫn chỉ là những nhân tố trong trạng thái khả năng thôi. Nói chung , muốn sản xuất thì hai cái đó phải kết hợp với nhau. Tính chất và phương thức đặc thù trong việc thực hiện kết hợp ấy, chính là phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau trong chế độ xã hội. Do sự khác nhau trong những vai trò mà tư liệu sản xuất và sức lao động trong sự hình thành ra giá trị trong quá trình sản xuất , và do đó trong cả việc đẻ ra giá trị thặng dư nữa, nên chúng phân ra thành tư bản bất biến và tư bản khả biến, trong chừng mực chúng là những hình thái tồn tại của giá trị tư bản ứng trước, Tiếp nữa với tư cách là những bộ phận cấu thành của tư bản sản xuất, chúng còn khác nhau ở chỗ là tư liệu sản xuất, vì thuộc quyền sở hữu của nhà tư bản, nên cả ở ngoài quá trình sản xuất chúng cũng vẫn là tư bản của nhà tư bản , còn sức lao động trở thành hình thái tồn tại của một tư bản cá biệt trong quá trình sản xuất mà thôi. Nếu chỉ trong tay người bán nó, tưc là trong tay người lao động làm thuê , sức lao động mới là hàng hoá, thì ngược lại, chỉ trong tay người mua nó, tức là nhà tư bản , kẻ nhất thời có quyền tiêu dùng nó , sức lao động mới trở thành tư bản. Bản thân tư liệu sản xuất cũng chỉ trở thành hiện thân bằng vật của tư bản sản xuất, bắt đầu từ khi sức lao động, hình thái người của sự tồn tại của tư bản ấy, có thể kết hợp với tư liệu sản xuất. Vậy, sức lao động của con người không phải là tư bản do bản chất của nó, cũng giống như tư liệu sản xuất không phải là tư bản do bản chất của chúng. Chỉ trong điều kiện phát triển lịch sử nhất định, thì những tư liệu sản xuất ấy mới có tính chất xã hội đặ thù , cũng hệt như chỉ trong những điều kiện phát triển lịch sử nhất định thì kim loại quý mới có tính chất là tiền hay tiền mới có tính chất tư bản tiền tệ.
Trong khi làm chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của bản thân nó để trên các thành phần ấy thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Vì sức lao động chỉ tác dụng như một trong những khí quản của tư bản, nên phần thặng ra của giá trị sản phẩm ngoài giá trị các yếu tố hình thành ra sản phẩm, tức là phần thặng lên do lao động thặng dư đẻ ra, là quả thực của tư bản. Lao động thặng dư của sức lao động là lao động không công cho tư bản và vì thế, nó tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, nghĩa là một giá trị mà nhà tư bản không phải trả bằng vật ngang giá . Giá trị của nó = SX + M, tức là bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí để chế tạo ra nó, SX , cộng với giá trị thặng dư M do tư bản sản xuất ấy đẻ ra.
3) Giai đoạn III : H-T
Hàng hoá trở thành tư bản – hàng hoá với tư cách là hình thái tồn tại chức năng có giá trị tư bản đã tăng thêm giá trị trực tiếp do bản thân quá trình sản xuất đẻ ra. Nếu sản xuất hàng hoá được tiến hành theo phương thức tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn xã hội thì mỗi hàng hoá ngay từ đầu đã là một yếu tố của tư bản hàng hoá.
Dưới hình thái hàng hoá của nó, tư bản nhất định phải hoàn thành chức năng của hàng hoá . tất cả các vật phẩm cấu thành tư bản đó ngay từ đầu đều được sản xuất cho thị trường, cần phải đem bán đi, phải chuyển hoá thành tiền, do đó, phải thông qua vận động H- T.
Chức năng của H’ cũng là chức năng của mọi sản phẩm hàng hoá: chuyển hoá thành tiền, bị bán đi, đi qua giai đoạn lưu thông H- T. Chừng nào mà tư bản hiện đã tăng thêm giá trị vẫn giữ hình thái tư bản- hàng hoá, vẫn nằm bất động trên thị trường , thì chừng ấy quá trình sản xuất vẫn bị ngừng lại. Tư bản không tác động với tư cách là kẻ làm ra sản phẩm, cũng như n với tư cách là kẻ làm ra giá trị. Tuỳ theo mức độ nhanh chậm khác nhau mà tư bản dùng để trút bỏ hình thái hàng hoá và khoác lấy hình thái tiền, hay nói một cách khác ,tuỳ theo tốc độ bán nhanh hay chậm, mà cũng một giá trị tư bản ấy sẽ được sử dụng làm kẻ tạo ra sản phẩm và kẻ tạo ra giá trị trên những mức độ rất khác nhau, do đó quy mô tái sản xuất cũng ẽ mở rộng ra hay thu hẹp lại . Giờ đây, chúng ta thấy rằng quá trình lưu thông làm cho những tiền lực mới phát huy tác dụng, những tiềm lực này quyết định mức độ hiệu nghiệm sự bành trướng hay sự thu hẹp của tư bản, và độc lập với đại lượng giá trị của tư bản.
Tiếp nữa, toàn bộ khối lượng hàng hoá H’, tức vật mang tư bản đã tăng thêm giá trị, phải thông qua sự biến hoá hình thái H’ –T’. ở đây, số lư