Tầm quan trọng của đề tài
Hiện nay đất nước đang trong xu thế hội nhập thế giới và đang thực hiện mục tiêu trở thành
nước công nghiệp hóa hiện đại hóa nên đòi hỏi mỗi ngành nghề, mỗi đơn vị hành chính phải
cố gắng hết mình để phát triển đưa đất nước đi lên. Tuy nhiên, để tiếp tục con đường phát
triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa, đất nước ngoài việc phải thực hiện các nục tiêu
tăng trưởng trước mắt, còn phải định hướng chính sách phát triển dài hạn. Dựa vào các mô
hình tăng trưởng kinh tế lý giải nguồn gốc tăng trưởng chúng ta có thể thấy rằng việc tăng
trưởng dựa vào nhiều yếu tố khác nhau như: vốn, tài nguyên, tiến bộ kỹ thuật và con người.
Qua nghiên cứu của Lê Xuân Bá (2005) cho thấy con người có vai trò quan trong việc phát
triển kinh tế.
Hoạt động Marketing không chỉ dừng lại ở phạm vi doanh nghiệp, một ngành nghề, hay một
lĩnh vực hoặc sản phẩm nào đó, mà nó đang đuợc phát triển ngày càng tăng mạnh mẽ trong
phạm vi một vùng, khu vực, địa phương và quốc gia. Các địa phương ngày nay phải tự
thân vận động như một doanh nghiệp theo định hướng thị trường. Các nhà lãnh đạo cần biết
xây dựng địa phương mình thành một sản phẩm hấp dẫn, đồng thời cần biết cách quảng bá
các nét đặt thù của “sản phẩm” này một cách hiệu quả đến các thị trường mục tiêu của mình.
Chiến lược Marketing đòi hỏi địa phương không chỉ nắm vững nhu cầu của khách hàng mà
còn hiểu biết sâu sắc các quy trình ra quyết định của khách hàng để có giải pháp thích hợp
thu hút khách hàng về với địa phương.
“Tương lai phát triển các địa phương không tùy thuộc vào vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên
thiên nhiên. Tương lai phát triển của địa phương tùy thuộc vào chuyên môn, kỹ năng đóng
góp, phẩm chất của con người và tổ chức tại “địa phương” (Philip Kotler)
Từ năm 1997 sau khi Bình Dương tái lập tỉnh , với những điều kiện địa lý là gần TP. HCM
một thành phố phát triển của cả nước và các chính sách thông thoáng về đầu tư Bình
Dương những năm gần đây luôn là 1 trong những lá cờ đầu về phát triển công nghiệp.
Ngoài ra những năm qua tỉnh luôn là 1 trong 2 tỉnh có chi số PCI cao nhất nước. Từ đó có
thể thấy sự phát triển của Bình Dương những năm gần đây là hết sức mạnh mẽ. Trong tình
hình hiện nay việc đạo tạo công nhân có trình độ và có tay nghề ngày càng trở thành nhu
cầu cấp thiết cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên việc thu hút các giảng viên có trình độ cao về
giảng dạy tại tỉnh vẫn là một bài toán nan giải của các nhà quản lý tỉnh. Những năm gần đây
tỉnh luôn đưa ra các chính sách ưu đãi nhằm thu hút nhân tài trong lĩnh vực giáo dục nhưng
dường như mọi chính sách ưu đãi đưa ra vẫn chưa đạt được những hiệu qua mà tỉnh mong
muốn. Vì vậy nhóm tác giả quyết định nghiên cứu đề tài “Marketing thu hút nhân tài
trong lĩnh vực đào tạo nghề tỉnh Bình Dƣơng”
Mục tiêu của đề tài
Trong quá tình nghiên cứu nhóm đã đưa được những mục tiêu cần giải quyết của đề tài:
(1) Tìm hiểu thực trạng trong lĩnh vực thu hút dân cư và nguồn lao động có trình độ cao
và có chuyên môn nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp nghề.
(2) Tìm hiểu về chất lượng giáo dục chuyên nghiệp của tỉnh bình dương, đưa ra nhận
định thương hiệu giáo dục của tỉnh Bình Dương so với các tỉnh thành khác trong khu
vực.
(3) Quảng bá môi trường sống và làm việc ở tỉnh Bình Dương đặc biệt là thành phố mới
Bình Dương.
(4) Đánh giá chính sách thu hút nhân tài của Bình Dương những năm vừa qua
Phương pháp nghiên cứu:
Các vấn đề trong luận văn được phân tích và đánh giá chủ yếu dựa trên các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích, thống kê, trên cơ sở nghiên cứu các số liệu, dữ liệu.
Phương pháp so sánh chính sách của Bình Dương với Đà Nẵng, Cần Thơ và một số
quốc gia.
Câu hỏi nghiên cứu:
Chất lượng đào tạo nghề tại Bình Dương có thật sự tốt hay không?
Bình Dương đã có những chính sách gì để thu hút nhân tài trong lĩnh vực này?
Những cơ hội, thách thức, mà Bình Dương phải gặp phải trong chính sách thu hút
nhân tài?
Nguồn số liệu dự kiến:
Số liệu thứ cấp được công bố của Tổng cục Thống kê (GSO), Sở Kế Hoạch Đầu Tư
Bình Dương, Cục Thống Kê Bình Dương từ năm 1997 đến năm 2009 để phân tích.
Hướng phát triển tiếp theo của đề tài:
Bài nghiên cứu này chỉ tiến hành phân tích định tính bằng các phương pháp thống kê mô tả,
so sánh Trong thời gian tới nhóm tác giả sẽ tiếp tục thu thập và xử lý số liệu để có thể áp
dụng bằng các phương pháp định lượng về tăng trưởng kinh tế. Trong đó có 1 phần ảnh
hưởng của vốn nhân lực, mà rất nhiều tác giả trong nước cũng như đã nghiên cứu
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đánh giá được sự thiếu hụt nguồn nhân lực trong giảng dạy ở các trường trung cấp; cao
đẳng và đại học
Chỉ ra được thực trạng yếu kém trong giảng dạy của tỉnh Bình Dương, và những chính
sách về giáo dục của tỉnh Bình Dương
Từ đó nhóm tác giả đưa ra các giải pháp ngắn hạn và dài hạn trong việc thu hút các
giảng viên và các giáo viên có trình độ nhằm đáp ứng nhu cầu thiếu hụt nguồn nhân lực
trong giảng dạy.
Kết cấu bài nghiên cứu
Sau chương 1: Giới thiệu, chuyên đề sẽ tiếp tục trình bày 4 chương tiếp theo như sau:
Chương 2: Trình bày cơ sở lý thuyết về marketing; chính sách thu hút nhân tài của
Singapore, Đà Nẵng, Bình Dương. Đánh giá kết quả đạt được ở Bình Dương.
Chương 3: Tổng quan về Bình Dương, thực trạng về lao động của tỉnh. Trong chương này
cũng nêu ra những cơ sở để Bình Dương thu hút nhân tài.
Chương 4: Phân tích, đề ra chiến lược SWOT cho Bình Dương.
Chương 5: Trình bày mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Bình Dương đến 2020, chính sách
phát triển nhân lực. Từ đó nhóm tác giả gợi ý một số chính sách giúp tỉnh nhà thu hút nhân
tài.
73 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2717 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Marketing thu hút nhân tài trong lĩnh vực đào tạo nghề tỉnh Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Chƣơng 1: GIỚI THIỆU
Tầm quan trọng của đề tài
Hiện nay đất nước đang trong xu thế hội nhập thế giới và đang thực hiện mục tiêu trở thành
nước công nghiệp hóa hiện đại hóa nên đòi hỏi mỗi ngành nghề, mỗi đơn vị hành chính phải
cố gắng hết mình để phát triển đưa đất nước đi lên. Tuy nhiên, để tiếp tục con đường phát
triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa, đất nước ngoài việc phải thực hiện các nục tiêu
tăng trưởng trước mắt, còn phải định hướng chính sách phát triển dài hạn. Dựa vào các mô
hình tăng trưởng kinh tế lý giải nguồn gốc tăng trưởng chúng ta có thể thấy rằng việc tăng
trưởng dựa vào nhiều yếu tố khác nhau như: vốn, tài nguyên, tiến bộ kỹ thuật và con người.
Qua nghiên cứu của Lê Xuân Bá (2005) cho thấy con người có vai trò quan trong việc phát
triển kinh tế.
Hoạt động Marketing không chỉ dừng lại ở phạm vi doanh nghiệp, một ngành nghề, hay một
lĩnh vực hoặc sản phẩm nào đó, mà nó đang đuợc phát triển ngày càng tăng mạnh mẽ trong
phạm vi một vùng, khu vực, địa phương và quốc gia. Các địa phương ngày nay phải tự
thân vận động như một doanh nghiệp theo định hướng thị trường. Các nhà lãnh đạo cần biết
xây dựng địa phương mình thành một sản phẩm hấp dẫn, đồng thời cần biết cách quảng bá
các nét đặt thù của “sản phẩm” này một cách hiệu quả đến các thị trường mục tiêu của mình.
Chiến lược Marketing đòi hỏi địa phương không chỉ nắm vững nhu cầu của khách hàng mà
còn hiểu biết sâu sắc các quy trình ra quyết định của khách hàng để có giải pháp thích hợp
thu hút khách hàng về với địa phương.
“Tương lai phát triển các địa phương không tùy thuộc vào vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên
thiên nhiên. Tương lai phát triển của địa phương tùy thuộc vào chuyên môn, kỹ năng đóng
góp, phẩm chất của con người và tổ chức tại “địa phương” (Philip Kotler)
Từ năm 1997 sau khi Bình Dương tái lập tỉnh , với những điều kiện địa lý là gần TP. HCM
một thành phố phát triển của cả nước và các chính sách thông thoáng về đầu tư Bình
Dương những năm gần đây luôn là 1 trong những lá cờ đầu về phát triển công nghiệp.
Ngoài ra những năm qua tỉnh luôn là 1 trong 2 tỉnh có chi số PCI cao nhất nước. Từ đó có
2
thể thấy sự phát triển của Bình Dương những năm gần đây là hết sức mạnh mẽ. Trong tình
hình hiện nay việc đạo tạo công nhân có trình độ và có tay nghề ngày càng trở thành nhu
cầu cấp thiết cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên việc thu hút các giảng viên có trình độ cao về
giảng dạy tại tỉnh vẫn là một bài toán nan giải của các nhà quản lý tỉnh. Những năm gần đây
tỉnh luôn đưa ra các chính sách ưu đãi nhằm thu hút nhân tài trong lĩnh vực giáo dục nhưng
dường như mọi chính sách ưu đãi đưa ra vẫn chưa đạt được những hiệu qua mà tỉnh mong
muốn. Vì vậy nhóm tác giả quyết định nghiên cứu đề tài “Marketing thu hút nhân tài
trong lĩnh vực đào tạo nghề tỉnh Bình Dƣơng”
Mục tiêu của đề tài
Trong quá tình nghiên cứu nhóm đã đưa được những mục tiêu cần giải quyết của đề tài:
(1) Tìm hiểu thực trạng trong lĩnh vực thu hút dân cư và nguồn lao động có trình độ cao
và có chuyên môn nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp nghề.
(2) Tìm hiểu về chất lượng giáo dục chuyên nghiệp của tỉnh bình dương, đưa ra nhận
định thương hiệu giáo dục của tỉnh Bình Dương so với các tỉnh thành khác trong khu
vực.
(3) Quảng bá môi trường sống và làm việc ở tỉnh Bình Dương đặc biệt là thành phố mới
Bình Dương.
(4) Đánh giá chính sách thu hút nhân tài của Bình Dương những năm vừa qua
Phương pháp nghiên cứu:
Các vấn đề trong luận văn được phân tích và đánh giá chủ yếu dựa trên các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích, thống kê, trên cơ sở nghiên cứu các số liệu, dữ liệu.
Phương pháp so sánh chính sách của Bình Dương với Đà Nẵng, Cần Thơ và một số
quốc gia.
3
Câu hỏi nghiên cứu:
Chất lượng đào tạo nghề tại Bình Dương có thật sự tốt hay không?
Bình Dương đã có những chính sách gì để thu hút nhân tài trong lĩnh vực này?
Những cơ hội, thách thức,… mà Bình Dương phải gặp phải trong chính sách thu hút
nhân tài?
Nguồn số liệu dự kiến:
Số liệu thứ cấp được công bố của Tổng cục Thống kê (GSO), Sở Kế Hoạch Đầu Tư
Bình Dương, Cục Thống Kê Bình Dương từ năm 1997 đến năm 2009 để phân tích.
Hướng phát triển tiếp theo của đề tài:
Bài nghiên cứu này chỉ tiến hành phân tích định tính bằng các phương pháp thống kê mô tả,
so sánh… Trong thời gian tới nhóm tác giả sẽ tiếp tục thu thập và xử lý số liệu để có thể áp
dụng bằng các phương pháp định lượng về tăng trưởng kinh tế. Trong đó có 1 phần ảnh
hưởng của vốn nhân lực, mà rất nhiều tác giả trong nước cũng như đã nghiên cứu
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đánh giá được sự thiếu hụt nguồn nhân lực trong giảng dạy ở các trường trung cấp; cao
đẳng và đại học
Chỉ ra được thực trạng yếu kém trong giảng dạy của tỉnh Bình Dương, và những chính
sách về giáo dục của tỉnh Bình Dương
Từ đó nhóm tác giả đưa ra các giải pháp ngắn hạn và dài hạn trong việc thu hút các
giảng viên và các giáo viên có trình độ nhằm đáp ứng nhu cầu thiếu hụt nguồn nhân lực
trong giảng dạy.
Kết cấu bài nghiên cứu
Sau chương 1: Giới thiệu, chuyên đề sẽ tiếp tục trình bày 4 chương tiếp theo như sau:
Chương 2: Trình bày cơ sở lý thuyết về marketing; chính sách thu hút nhân tài của
Singapore, Đà Nẵng, Bình Dương. Đánh giá kết quả đạt được ở Bình Dương.
4
Chương 3: Tổng quan về Bình Dương, thực trạng về lao động của tỉnh. Trong chương này
cũng nêu ra những cơ sở để Bình Dương thu hút nhân tài.
Chương 4: Phân tích, đề ra chiến lược SWOT cho Bình Dương.
Chương 5: Trình bày mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Bình Dương đến 2020, chính sách
phát triển nhân lực. Từ đó nhóm tác giả gợi ý một số chính sách giúp tỉnh nhà thu hút nhân
tài.
5
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 Các kiến thức cơ bản về Marketing
2.1.1 Sự ra đời và phát triển của Marketing
Marketing đúng theo ý nghĩa của nó xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX ở Mỹ, phát
triển từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1932, đặc biệt sau Chiến tranh thế giới thứ
hai. Mặc dù nó đã có quá trình phát triển từ năm 1960 khi ông Mitsui, một thương gia ở
Tokyo đã có những sáng kiến liên quan đến hoạt động Marketing như sau:
Ông đã thiết kế và sản xuất ra những mặt hàng bền, đẹp cho khách hàng, đề ra những
nguyên tắc làm vừa lòng khách hàng và họ có quyền lựa chọn lúc mua hàng, khi đã giao
tiền lấy hàng rồi mà không thích thì được trả lại. Ông thường xuyên theo dõi và ghi chép
cẩn thận để biết mặt hàng nào bán nhanh và mặt hàng nào ứ đọng, từ đó ông đổi mới hàng
hoá để phù hợp với nhu cầu người mua.
Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ 20, Marketing và những vấn đề của nó xuất hiện ở
Châu Âu. Nhiều cơ sở Marketing lần lượt hình thành ở Anh, Áo, và nhiều nước khác. Mục
đích chính của Marketing trong giai đoạn này là hoàn thiện những phương pháp, kỹ thuật
lưu thông hàng hoá. Chính vì vậy mà có một thời từ “thương mại” và “Marketing” được sử
dụng như những từ đồng nghĩa.
Sự phức tạp của sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trong những năm 50 và 60, cũng như sự cạnh
tranh gay gắt của thị trường càng làm tăng thêm vai trò, ý nghĩa của Marketing trong quản
lý nền kinh tế ở các nước tư bản. Hàng loạt viện khoa học, cơ sở Marketing, văn phòng tư
vấn được thành lập trong các xí nghiệp, công ty. Hoạt động Marketing đã đóng vai trò quyết
định trong lĩnh vực quản lý và cạnh tranh của các nhà tư bản.
Vào những năm 70, trong điều kiện cạnh tranh, độc quyền ngày càng gay gắt, nhiệm vụ của
Marketing ngày càng phức tạp. Lĩnh vực áp dụng Marketing được mở rộng. Nó không chỉ
được sử dụng trong các xí nghiệp, công ty, mà còn được sử dụng trong quản lý toàn bộ xã
hội. Nhiệm vụ chủ yếu của Marketing trong giai đoạn này là đảm bảo đến mức cao nhất lợi
6
nhuận độc quyền Nhà Nước, thông qua việc sử dụng hoạt động kinh doanh năng động và cụ
thể của các tập đoàn, xí nghiệp, công ty.
2.1.2 Khái niệm về Marketing:
Có nhiều khái niệm về marketing :
Marketing là việc tiến hành kinh doanh có liên quan trực tiếp đến đến dòng chuyển động
hàng hoá và dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng ( khái niệm của ủy ban các hiệp
hội Marketing Mỹ).
Marketing là chức năng quản lý công ty về mặt tổ chức và quản lý toàn bộ các hoạt động
kinh doanh từ việc phát hiện ra và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự
về một mặt cụ thể, đến việc đưa hàng hoá đến người tiêu thụ cuối cùng nhằm đảm bảo cho
công ty thu được lợi nhuận như dự kiến (Định nghĩa của học viện Anh).
Marketing là hoạt động của con người hướng đến thõa mãn nhu cầu mong muốn thông qua
tiến trình trao đổi (Định nghĩa của Philip Kotler).
2.1.3 Phân loại Marketing
2.1.3.1 Căn cứ vào môi trƣờng ứng dụng. Marketing đƣợc chia làm hai nhóm
(1) Nhóm thứ nhất: Marketing trong kinh doanh, gồm có:
Marketing thương mại: đã đạt được nhiều thành tựu trong việc bán hàng như xây dựng
các siêu thị … Và các phương pháp bán hấp dẫn.
Marketing công nghiệp: là Marketing của các doanh nghiệp sản xuất nhằm bán sản
phẩm của mình chủ yếu cho các doanh nghiệp khác mà không phải cho tiêu dùng cá
nhân hay các gia đình.
Marketing ngân hàng: Hướng hoạt động vào việc huy động tiền gửi và khai thác có hiệu
quả nguồn vốn cho vay. Vì vậy chính sách sản phẩm là các dịch vụ gửi tiền thuận lợi,
nhanh chóng, an toàn…, chính sách giá cả là lãi suất vay và gửi.
7
Marketing du lịch: Ngày nay du lịch đang phát triển mạnh, nhu cầu du lịch khá đa dạng.
Marketing du lịch hướng vào thiết kế những loại hình du lịch khác nhau để đáp ứng nhu
cầu trên. Hoạt động du lịch liên quan đến rất nhiều ngành khác nhau nên ứng dụng
Marketing Hỗn hợp ở đây không phải là "4P" mà là 5P, 6P…
Marketing quốc tế: Các Công ty kinh doanh quốc tế sử dụng nội dung của Marketing
quốc tế. Cụ thể, các công ty tiến hành nghiên cứu môi trường Marketing quốc tế, xây
dựng chiến lược thâm nhập thị trường thế giới và chiến lược Marketing Mix cho sản
phẩm quốc tế. Các công ty ngoại thương áp dụng Marketing xuất nhập khẩu.
(2) Nhóm thứ hai: Marketing phi kinh doanh
Khác với Marketing trong kinh doanh, Marketing xã hội do các cơ quan chính phủ, phi
chính phủ, các đoàn thể quần chúng… thực hiện không vì mục đích lợi nhuận, nhằm đạt
được một kết quả nào đó.
Ví dụ: Vận dụng Marketing tuyên truyền, vận động nhân dân giữ gìn thành phố sạch
đẹp, xanh tươi, hoặc phòng chống các tệ nạn xã hội, bệnh thế kỉ HIV/AIDS hay thực
hiện các cuộc tiêm chủng mở rộng để phòng chống 6 bệnh nguy hiểm…
2.1.3.2 Căn cứ vào tiến trình phát triển của Marketing: được chia làm ba nhóm
Marketing truyền thống (Marketing cổ điển): toàn bộ hoạt động Marketing chỉ diễn ra trên
thị trường trong khâu lưu thông. Hoạt động đầu tiên của Marketing là làm thị trường và sự
phát triển tiếp theo của nó trên các kênh lưu thông. Sự ra đời của Marketing truyền thống có
vai trò vô cùng quan trọng để hình thành Marketing hiện đại.
Marketing hiện đại: sự ra đời của Marketing hiện đại đã góp phần to lớn vào việc khắc phục
tình trạng khủng hoảng thừa và thúc đấy sản xuất, khoa học kỹ thuật tiếp tục phát triển.
Marketing hiện đại coi thị trường là khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất hàng
hoá. Trên thị trường, người mua (nhu cầu) có vai trò quyết định. Marketing hiện đại bắt đầu
từ nhu cầu trên thị trường đến tổ chức phân phối hàng hoá và bán hàng để thoả mãn nhu cầu
đó. Trong Marketing hiện đại, thị trường, sản xuất, phân phối và trao đổi được nghiên cứu
trong một tổng thể thống nhất.
8
Marketing Mix (Marketing hỗn hợp): sau thời gian phát triển của nền kinh tế thị trường,
Marketing Mix đã kế thừa Marketing hiện đại để hình thành hệ thống Marketing hoàn chỉnh
hơn. Xu hướng hiện nay là Marketing Mix vì nó đã đem lại cho các doanh nghiệp những
chính sách phù hợp cho từng loại hàng hoá, thị trường khác nhau.
2.1.3.3 Căn cứ vào tầm vóc, phạm vi ảnh hƣởng của Marketing chia làm hai loại
Marketing vi mô (Micro-marketing) là toàn bộ những hoạt động nào đó của doanh nghiệp
hướng vào việc hoàn thành những mục tiêu của tổ chức thông qua việc dự đoán nhu cầu của
khách hàng và điều khiển luồng sản phẩm/dịch vụ đến tận khách hàng nhằm thõa mãn tối đa
nhu cầu của họ.
Marketing vĩ mô (Macro-marketing) là một quy trình nhắm vào việc điều khiển và điều
chỉnh luồng sản phẩm/dịch vụ từ nhà sản xuất đến khách hàng, bằng cách nào đó tiếp cận
được cung và cầu của thị trường và phù hợp với các mục tiêu kinh tế văn hóa- xã hội, chính
trị, pháp luật, công nghệ và môi trường sinh thái của xã hội.
2.1.4 Vai trò, chức năng và mục tiêu của marketing
2.1.4.1 Vai trò
Đối với sản xuất: Thông qua Marketing, sản phẩm được sản xuất ra nhằm để thoả mãn nhu
cầu.
Đối với thị trường: Vận dụng Marketing có tác dụng kích thích thị trường xã hội trong và
ngoài nước, liên kết chặt chẽ với cơ chế của đời sống kinh tế. Marketing rất cần thiết khi
giải quyết các vấn đề về thị trường, trong mối quan hệ giữa công ty với thị trường.
Đối với kế hoạch: Như một phương tiện, một công cụ tìm ra phương hướng, con đường hoạt
động tương lai của công ty. Marketing phản ánh tập trung kế hoạch kinh tế. Kế hoạch hoá
và Marketing có quan hệ chặt chẽ với nhau: Marketing phục vụ trước tiên các quá trình thực
hiện các kế hoạch và tạo cơ sở khách quan khoa học cho kế hoạch; nhờ đó mà tính khoa học
và tính hiện thực của kế hoạch được nâng cao. Trên cơ sở nghiên cứu Marketing từ đó rút ra
9
những kết luận rõ về khả năng tiêu thụ sản phẩm thu được thông qua hoạt động của vốn đầu
tư tương ứng.
2.1.4.2. Chức năng:
(1) Chức năng tiêu thụ sản phẩm
Tìm hiểu những người tiêu thụ và lựa chọn những người tiêu thụ có khả năng nhất.
Hướng dẫn khách hàng về thủ tục ký kết hợp đồng, đơn đặt hàng, chuẩn bị các chứng từ
vận tải, danh mục gởi hàng, các thủ tục hải quan, chỉ dẫn bao gói, ký mã hiệu và các thủ
tục khác để sẵn sàng giao hàng.
Kiểm soát về giá cả.
Chỉ ra các nghiệp vụ và nghệ thuật bán hàng.
Quảng cáo, tuyên truyền…
(2) Chức năng nghiên cứu thị trường
Đó là việc xem xét các biến động của thị trường và bản chất hoạt động của các chiến
lược Marketing của công ty. Chức năng này bao gồm các hoạt động sau: thu thập thông
tin về thị trường, phân tích tiềm năng nhu cầu tiêu dùng và dự đoán triển vọng.
(3) Chức năng tổ chức quản lý
Tăng cường khả năng của các xí nghiệp thích ứng với điều kiện biến động thường xuyên
về lao động, vật tư, tài chính, thị trường.
Phối hợp và lập kế hoạch.
Thoả mãn nhu cầu thị trường ngày càng cao.
Tổ chức và hoàn thiện hệ thống tiêu thụ, phân phối sản phẩm.
(4) Chức năng hiệu quả kinh tế
Thúc đẩy kinh tế phát triển, hợp lý hoá hoạt động sản xuất và kinh doanh do đó
Marketing là công cụ cho việc tạo lợi nhuận.
10
2.1.4.3. Mục tiêu của marketing
Tối đa hoá sự tiêu thụ: Nhiều người lãnh đạo của giới kinh doanh cho rằng mục tiêu của
Marketing là tạo điều kiện dễ dàng và kích thích mức tiêu dùng cao nhất. Điều này sẽ có tác
dụng ngược trở lại là tạo điều kiện nâng cao tối đa khả năng sản xuất, tạo công ăn việc làm
và tạo ra nhiều của cải cho xã hội.
Tối đa hoá sự hài lòng của khách hàng: Mục tiêu của hệ thống Marketing là đạt được mức
độ thoả mãn người tiêu dùng cao nhất, chứ không phải mức tiêu dùng cao nhất. Việc tiêu
dùng một số lượng kẹo “gum” hay mua sắm thật nhiều quần áo là kết quả của việc thoả mãn
nhu cầu khách hàng nhiều hơn. Tuy nhiên, sự hài lòng của khách hàng khó đo lường được
vì:
Chưa có nhà kinh tế nào nghĩ ra cách đo mức độ hài lòng của khách hàng bằng dụng cụ
cụ thể, nhưng sự hài lòng hoàn toàn do một sản phẩm đặc thù hoặc hoạt động Marketing
có thể đánh giá được.
Sự thoả mãn trực tiếp của cá nhân người tiêu dùng có được từ các hàng hoá đặc biệt gây
ra tác hại xấu như tình trạng ô nhiễm và huỷ hoại môi trường.
Kinh nghiệm những người hài lòng khi sử dụng các loại hàng hoá như hàng hoá mang
tính địa vị xã hội… lại phụ thuộc vào việc có bao nhiêu người khác có các hàng hoá này.
Cho nên, người ta khó đánh giá hệ thống Marketing theo thuật ngữ khách hàng đã thoả
mãn hay hài lòng ở mức độ cụ thể là bao nhiêu.
Tối đa hoá sự lựa chọn: Một số nhà kinh doanh cho rằng mục tiêu cơ bản của hệ thống
Marketing là cung cấp thật phong phú các chủng loại hàng và giành cho người tiêu dùng
quyền lựa chọn cao nhất. Hệ thống Marketing phải đem lại cho người tiêu dùng khả năng
tìm thấy những thứ hàng phù hợp nhất với thị hiếu của họ. Người tiêu dùng phải có khả
năng cải thiện tốt hơn lối sống của mình và nhờ vậy được thoả mãn tốt nhất.
Tối đa hoá chất lượng cuộc sống: Nhiều người cho rằng mục tiêu cơ bản của hệ thống
Marketing phải là cải thiện chất lượng đời sống. Khái niệm này bao gồm: chất lượng, số
11
lượng, chủng loại, dễ tìm kiếm, chi phí sản xuất hàng hoá, chất lượng môi trường vật chất,
chất lượng môi trường văn hoá.
Người ta sẽ xét đoán hệ thống Marketing bằng mức độ thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng
trực tiếp do nó tạo ra, và bằng sự tác động của hoạt động Marketing đến chất lượng môi
trường vật chất và văn hoá.
Hầu hết mọi người đồng ý rằng chất lượng của cuộc sống là mục tiêu quí giá đối với hệ
thống Marketing. Nhưng người ta cũng nhận thức rằng không dễ dàng đo lường chất
lượng cuộc sống và chủ đề chất lượng cuộc sống vẫn còn mâu thuẫn trong việc giải thích.
2.2 Giới thiệu marketing địa phƣơng
Nhiều quốc gia đã thành công trong việc phát triển kinh tế của quốc gia mình, tuy nhiên
cũng không ít quốc gia mà ở đó việc phát triển kinh tế không được như ý muốn. Những khó
khăn trong việc phát triển kinh tế của các quốc gia này không phải là họ làm sai, nhưng là
do họ theo đuổi các chính sách phát triển không còn phù hợp trong nền kinh tế thế giới hiện
nay nữa (Fairbanks & Lindsay 1997). Một điểm cần lưu ý là một số quốc gia đã vực được
nền kinh tế của mình lên như Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v…. là những quốc gia không có
những lợi thế so sánh về các yếu tố sản xuất cơ bản như tài nguyên thiên nhiên hay lao động
rẻ. Sự tin tưởng quá mức vào lý thuyết lợi thế so sánh do Ricardo đưa ra từ đầu thế kỷ 19 có
thể là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự thất bại trong việc phát triển kinh tế
địa phương. Những thách thức trong cạnh tranh trên lãnh vực toàn cầu đòi hỏi các quốc gia,
thành phố, tỉnh thay đổi cách nhìn của họ. Lợi thế so sánh của các yếu tố sản xuất cơ bản
không còn là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế nữa. Lý do là tất cả đều mang tính
tương đối. Khi nền kinh tế thế giới ngày càng có xu hướng toàn cầu hóa, thì lợi thế trong
việc xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên hay lao động rẻ ngày càng mờ nhạt (Fairbanks &
Lindsay 1997). Một cách nhìn về địa phương mà nhiều nhà hoạch định chính sách đều đồng
ý đó là việc xem một địa phương như là một thương hiệu gọi là thương hiệu địa phương, để
tiếp thị nó (Kotler & ctg. 2002). Chương này có mục đích trình bày những lý thuyết cơ bản
12
về tiếp thị địa phương để vận dụng cho việc phân tích và xây dựng chiến lược tiếp thị địa
phương trình bày ở các chương tiếp theo.
2.3 Quy trình marketing địa phƣơng
Những nguyên tắc cơ bản của tiếp thị thương hiệu địa phương không khác biệt gì so với
tiếp thị thương hiệu của doanh nghiệp. Qui trình tiếp thị thương hiệu địa phương bắt đầu
bằng việc đánh giá hiện trạng của địa phương. Trên cơ sở đó, nhà tiếp thị địa phương xây
dựng tầm nhìn và mục tiêu cho địa phương. Tiếp theo, nhà tiếp thị địa phương thiết kế các
chiến lược tiếp thị cho địa phương mình. Công việc bao gồm xác định thị trường mục tiêu,
xây dựng và định vị hình tượng của thương hiệu địa phương và các chiến lược quảng bá địa
phương. Sau đó, nhà tiếp thị phải hoạch định chương trình tiếp thị và cuối cùng là quản lý
việc thực hiện, kiểm soát (Hồ Đức Hùng, 2004)
Hình 2.1: Tiếp thị địa phương liên quan đến 3 nhóm chính
Nguồn: Kotler & ctg. (2002:45)
Thò tröôøng muïc tieâu
Nhoùm
hoaïch ñònh
Daân cö
Khu vöïc
kinh doanh
Chính
quy