Thếgiới ngày nay đang phải đối mặt với nhiều thách thức mang tính toàn
cầu. Đáng chú ý là những thách thức vềkhủng hoảng năng lượng, khủng hoảng
lương thực. ỞViệt Nam, trong quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước,
chúng ta đã và đang thu hút sự đầu tư của nước ngoài, các dựán xây dựng hạtầng,
nhà máy, khu đô thịđược mọc lên trên những mảnh đất nông nghiệp của bà con
nông dân.
Nước ta vốn là nước nông nghiệp nên vấn đềnông nghiệp, nông thôn luôn
luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sựnghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Hiện nay, 70.4% dân cư nước tađang sống ởvùng nông thôn. Nếu như
những người này được sống trong an sinh và phát triển thì họsẽtạo ra một nền tảng
vững chắc cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày nay, nhiều nước trên thếgiới đã phải trảgiá quá lớn vềmô hình công
nghiệp hóa theo hướng bóc tách lấynông nghiệp cho công nghiệp, nông thôn cho
đô thị, tàn phá thậm chí loại bỏnông nghiệp và nông thôn. Điều đó đã dẫn đến
những hậu quả lâu dài trên quy mô quốc gia vềtính bền vững của phát triển, về
khủng hoảng lương thực, thực phẩm, vềphá hoại môi trường sinh thái, vềviệc đẩy
một sốđông dân cư vào thế bần cùng hóa. Đặc biệt sựthay đổi ấy còn gây ra xung
đột, khủng hoảng xã hội.
Việc thu hồi đất là đểxây dựng các khu công nghiệp chính là điều kiện thuận
và thời cơ thuận lợi đểmột bộphận lực lượng lao động nông nghiệp, là khu vực có
năng suất thấp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh mặt tích cực, nhiều
vấn đềbức xúc trong xã hội cũng nảy sinh sau việc thu hồi đất. Đó là việc mua bán
2
đất bất hợp pháp, nhiều vụtiêu cực ởnông thôn cũng nảy sinh từviệc thu hồi đất
đai, hiện tượng thiếu việc làm của người nông dân khi họđã mất hết đất nông
nghiệp đểcanh tác. Hàng loạt thanh niên bỏquê đi phiêu dạt đến các thành phốlớn
đểkiếm sống. Và hơn thếnữa là những tệnạn xã hội ởđô thịđã tràn vềnông thôn.
Lối sống của người dân đô thịcũng xâm lấnvào lối sống của người dân nông thôn.
Đểtừđó một nền văn hóa nông thôn của chúng ta cũng bịthay đổi nhiều.
Từnhững thực tếtrên đòi hỏi chúng ta đặt ra các câu hỏi: Thực trạng mất đất
nông nghiệp ởnông thôn đang diễn ra như thếnào? Hậu quảcủa việc mất đất nông
nghiệp ởViệt Nam ra sao? Nguyên nhân của vấn đềmất đất nông nghiệp hiện nay
là gì? Chính sách đền bù cho người dân mất đất nông nghiệp hiện nay như thếnào?
Những biện pháp nào khảthi đểcải thiện tình trạng mất đất nông nghiệp? Đây là
những câu hỏi mà đềtài “Mất đất nông nghiệp ởViệt Namhiện nay, thực trạng và
hậu quảtrong tương lai” sẽgóp phần giải đáp.
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3491 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mất đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay Thực trạng và hậu quả trong tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU 2
1. Tính cấp thiết của đề tài 2
2. Mục đích, nhiệm vụ 3
2.1 Mục đích 3
2.2 Nhiệm vụ 3
3. Phương pháp nghiên cứu 4
3.1 Phương pháp luận 4
3.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể 4
4. Thao tác hóa khái niệm 5
II. PHẦN NỘI DUNG 6
1.Thực trạng mất đất nông nghiệp ở nước ta 6
1.1 Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, 7
hiện đại hóa
1.2 Thực trạng công tác đền bù cho người dân mất đất nông nghiệp 7
1.3 Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp đã bị thu hồi 12
1.4 Thực trạng giải quyết việc làm cho người dân bị mất đất nông nghiệp 14
2. Hậu quả của mất đất nông nghiệp 17
2.1 Vấn đề an ninh lương thực 17
2.1 Vấn đề thiếu việc làm của người dân bị mất đất nông nghiệp 19
III. PHẦN KẾT LUẬN 21
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1CHƯƠNG 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thế giới ngày nay đang phải đối mặt với nhiều thách thức mang tính toàn
cầu. Đáng chú ý là những thách thức về khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng
lương thực. Ở Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
chúng ta đã và đang thu hút sự đầu tư của nước ngoài, các dự án xây dựng hạ tầng,
nhà máy, khu đô thị được mọc lên trên những mảnh đất nông nghiệp của bà con
nông dân.
Nước ta vốn là nước nông nghiệp nên vấn đề nông nghiệp, nông thôn luôn
luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Hiện nay, 70.4% dân cư nước ta đang sống ở vùng nông thôn. Nếu như
những người này được sống trong an sinh và phát triển thì họ sẽ tạo ra một nền tảng
vững chắc cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã phải trả giá quá lớn về mô hình công
nghiệp hóa theo hướng bóc tách lấy nông nghiệp cho công nghiệp, nông thôn cho
đô thị, tàn phá thậm chí loại bỏ nông nghiệp và nông thôn. Điều đó đã dẫn đến
những hậu quả lâu dài trên quy mô quốc gia về tính bền vững của phát triển, về
khủng hoảng lương thực, thực phẩm, về phá hoại môi trường sinh thái, về việc đẩy
một số đông dân cư vào thế bần cùng hóa. Đặc biệt sự thay đổi ấy còn gây ra xung
đột, khủng hoảng xã hội.
Việc thu hồi đất là để xây dựng các khu công nghiệp chính là điều kiện thuận
và thời cơ thuận lợi để một bộ phận lực lượng lao động nông nghiệp, là khu vực có
năng suất thấp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh mặt tích cực, nhiều
vấn đề bức xúc trong xã hội cũng nảy sinh sau việc thu hồi đất. Đó là việc mua bán
2đất bất hợp pháp, nhiều vụ tiêu cực ở nông thôn cũng nảy sinh từ việc thu hồi đất
đai, hiện tượng thiếu việc làm của người nông dân khi họ đã mất hết đất nông
nghiệp để canh tác. Hàng loạt thanh niên bỏ quê đi phiêu dạt đến các thành phố lớn
để kiếm sống. Và hơn thế nữa là những tệ nạn xã hội ở đô thị đã tràn về nông thôn.
Lối sống của người dân đô thị cũng xâm lấn vào lối sống của người dân nông thôn.
Để từ đó một nền văn hóa nông thôn của chúng ta cũng bị thay đổi nhiều.
Từ những thực tế trên đòi hỏi chúng ta đặt ra các câu hỏi: Thực trạng mất đất
nông nghiệp ở nông thôn đang diễn ra như thế nào? Hậu quả của việc mất đất nông
nghiệp ở Việt Nam ra sao? Nguyên nhân của vấn đề mất đất nông nghiệp hiện nay
là gì? Chính sách đền bù cho người dân mất đất nông nghiệp hiện nay như thế nào?
Những biện pháp nào khả thi để cải thiện tình trạng mất đất nông nghiệp? Đây là
những câu hỏi mà đề tài “Mất đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và
hậu quả trong tương lai” sẽ góp phần giải đáp.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích:
- Mô tả thực trạng mất đất nông nghiệp, tìm hiểu quan điểm của người dân
về việc thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng lấy đất nông nghiệp
vào việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị và góp phần vào phát triển bền
vững nông thôn.
2.2. Nhiệm vụ:
- Thao tác hóa các khái niệm và lý thuyết có liên quan trong quá trình nghiên
cứu.
3- Tìm hiểu quan điểm của người dân về vấn đề mất đất nông nghiệp.
- Xây dựng bộ chỉ báo về các yếu tố liên quan tới quan điểm của người dân
về vấn đề mất đất nông nghiệp.
- Đưa ra các kết luận, khuyến nghị nhằm làm giảm thiểu tình trạng mất đất
nông nghiệp của người dân, góp phần vào phát triển bền vững nông thôn.
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1 Phương pháp luận:
Đề tài vận dụng phương pháp duy vật biện chứng làm nền tảng cơ sở và cho
nghiên cứu.
Đề tài vận dụng một số lý thuyết xã hội học để làm cơ sở nghiên cứu như: Lý
thuyết chức năng, lý thuyết phát triển bền vững.
- Theo hướng tiếp cận của lý thuyết chức năng: Xã hội là một hệ thống
tương đối chặt chẽ được cấu thành từ các tiểu hệ thống. Mỗi tiểu hệ thống giữ một
vai trò nhất định, thực hiện những chức năng nhất định để duy trì sự tồn tại và phát
triển của toàn bộ hệ thống” (Các lý thuyết xã hội học – Vũ Quang Hà, tr.146). Vận
dụng lý thuyết chức năng vào đề tài nghiên cứu này nhằm giải thích cho sự ổn định
trật tự của xã hội nông thôn. Đó là một xã hội ưa chuộng hòa bình, không muốn
biến đổi. Khi có sự can thiệp của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để lấy đất
nông nghiệp ở nông thôn thì sẽ xảy ra những biến đổi xã hội. Sự biến đổi ấy là
“phản chức năng” của các tiểu hệ thống ở xã hội nông thôn.
- Theo hướng tiếp cận của lý thuyết phát triển bền vững: Theo quan điểm
của lý thuyết này, phát triển bền vững có nghĩa là không chỉ đảm bảo sự hài hòa với
môi trường tự nhiên (đặc biệt là môi trường sinh thái) mà còn đảm bảo sự hòa
4thuận xã hội giữa các lực lượng xã hội. Vấn đề phát triển nông thôn và nông nghiệp
phải được đặt trong quan hệ phát triển công nghiệp, đô thị. Vận dụng lý thuuyết
này vào đề tài nhằm giải thích sự biến đổi của xã hội nông thôn sau khi thu hồi đất
nông nghiệp. Việc thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa có đảm bảo phát triển bền vững hay không?
3.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Phương pháp phân tích tài liệu:
Đề tài tiến hành phân tích kết quả của các công trình nghiên cứu về quản lý,
sử dụng đất nông nghiệp. Đặc biệt, đề tài sử dụng một phần kết quả phỏng vấn sâu
trong nghiên cứu “Tranh chấp, khiếu kiện đất đai – một biểu hiện của xung đột xã
hội nông thôn trong những năm đổi mới” (nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Tây) của
tác giả Phan Văn Tân được tiến hành năm 2003.
Bên cạnh đó đề tài sử dụng các bài viết về vấn đề mất đất nông nghiệp để
làm tài liệu trong báo cáo này (báo nongnghiep.vn; nongdan.vn, tuoi tre.vn).
4. Thao tác hóa khái niệm:
Đất là tài nguyên vật liệu của con người. Đất có hai nghĩa: Đất đai là nơi ở,
xây dựng cơ sở hạ tầng của con người và thổ nhưỡng là mặt bằng để sản xuất nông
lâm nghiệp. (theo Bộ Tài nguyên và môi trường).
Nông nghiệp là quá trình sản xuất lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc, tơ
sợi và sản phảm mong muốn khác bởi trồng trọt những cây trồng chính và chăn
nuôi đàn gia súc.
5Như vậy đất nông nghiệp là đất để phục vụ quá trình sản xuất lương thực,
thực phẩm, thức ăn chăn nuôi gia súc, tơ sợi và những sản phẩm mong muốn khác
bởi trồng trọt những cây trồng chính và chăn nuôi đàn gia súc.
CHƯƠNG 2
PHẦN NỘI DUNG
1.Thực trạng mất đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay:
1.1 Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa:
Đất nông nghiệp ở đồng bằng nước ta là những vùng đất màu mỡ và trù phú.
Từ những vùng đất ấy, người nông dân có thể tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp
để nuôi sống con người. Tuy nhiên hiện nay, những vùng đất có độ phì nhiêu cao
đang bị mất dần đi thay vào đó là các công trình xây dựng, các khu đô thị, khu công
nghiệp, sân golf…
Theo bà Hoàng Thị Vân Anh (Tổng cục quản lý đất đai): “Trong những năm
qua dẫu rằng diện tích đất nông nghiệp của chúng ta không ngừng tăng lên, nhưng
chủ yếu là tăng ở các vùng trung du và miền núi. Đối với vùng đồng bằng, nơi tập
trung đất nông nghiệp màu mỡ nhất (thậm chí được coi là vựa lúa) lại có xu hướng
giảm. Nếu như năm 2005, diện tích đất nông nghiệp của Đông Nam Bộ là hơn 1,96
triệu ha thì đến năm 2008 chỉ còn hơn 1,94 triệu ha. Tương tự ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long từ hơn 3,44 triệu ha (năm 2005) giảm xuống còn hơn 3,43 triệu ha
(năm 2008). Đối với vùng đồng bằng sông Hồng trong thời gian đó, đất nông
nghiệp đã giảm từ 0,96 triệu ha xuống còn 0,95 triệu ha”.
Theo báo cáo trên, ta có thể thấy rằng diện tích đất nông nghiệp ở các vùng
đồng bằng của nước ta đang bị suy giảm một cách nghiêm trọng. Từ năm 2005 đến
6năm 2008 (trong vòng 3 năm) nhưng diện tích đất nông nghiệp của Đông Nam Bộ
đã giảm 20000 ha, đồng bằng sông Cửu Long giảm 10000 ha, đồng bằng sông
Hồng giảm 10000 ha. Đó quả thật là những con số không nhỏ. Những diện tích đất
nông nghiệp ấy, nếu được tạo dùng để sản xuất nông nghiệp thì chắc chắn chúng ta
có thể nuôi sống được rất nhiều người trong xã hội.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, từ năm 2000-2007, tổng
diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi trong cả nước là gần 500000 ha, chiếm khoảng
5% đất nông nghiệp đang sử dụng. Như vậy, bình quân mỗi năm nông dân phải
nhường 74000 ha đất nông nghiệp cho việc phát triển các khu công nghiệp, đô thị,
và kết cấu hạ tầng. Các vùng kinh tế trọng điểm có diện tích đất bị thu hồi chiếm
khoảng 50% diện tích đất bị thu hồi trong cả nước. Chỉ tính riêng năm 2007, diện
tích gieo cấy lúa đã giảm 125000 ha, trong tổng số 336000 ha đất trồng lúa đã bị
thu hồi. Điều đáng nói là đất nông nghiệp bị thu hồi có xu hướng năm sau luôn tăng
hơn năm trước.
Theo Giáo sư, tiến sỹ Vũ Tuyên Hoàng: “Phần đất canh tác bị chuyển đổi
lại là những vùng đất tốt. Như diện tích đất trồng trọt màu mỡ ven quốc lộ 5 cũng
bị đổ cát xây dựng các khu công nghiệp”.
Tiến sỹ Cao Vĩnh Hải (Viện nghiên cứu Hỗ trợ nông thôn- IRARD) đưa ra
con số đáng để chúng ta suy ngẫm: “Việt Nam là nước có diện tích đất trung bình
thế giới nhưng xét về mặt bình quân đất nông nghiệp thì đứng thứ 159”.
Một điều đáng buồn hơn nữa là đất bị thu hồi lại chính là những vùng đất
thuộc diện màu mỡ, hằng năm mang lại một khoản thu nhập không nhỏ cho người
nông dân: “Xã Tiền Phong –Mê Linh- Vĩnh Phúc có 562 ha đất nông nghiệp nhưng
đã hiến để làm công nghiệp tới 257 ha. Người dân trồng hoa 1 sào thu tới 20 triệu
đồng/năm, hành tây thu 15 triệu đồng và mướp đắng thu 10 triệu đồng. Theo tiến sỹ
7Cao Vĩnh Hải tính toán ở Tiền Phong 1 ha đất nông nghiệp có thể thu 270- 500
triệu đồng/năm”. (Nông dân mất đất- Câu chuyện đến hồi gay cấn!- Mai Xuân
Nghiên- nongnghiep.vn 11/03/2008)
Hầu hết người dân khi được hỏi về việc thu hồi đất nông nghiệp họ đều
không muốn mất đất. Họ cho rằng việc mất đất nông nghiệp như là cái “hạn” của
người dân. Họ còn tỏ thái độ bức xúc với cán bộ địa phương khi có dự án lấy đất
nông nghiệp ở xã. Một nông dân đã đặt câu hỏi:
“Tại sao đất nông nghiệp nhiều nơi chỉ làm ra 1 triệu đồng/năm, dân chán
ruộng, sản xuất kém hiệu quả lại không thu hồi mà đi thu hồi 1 sào đất nông nghiệp
làm ra 10 triệu đồng/năm. Chúng tôi bầu ông làm trưởng thôn, ông phải làm gì cho
dân chứ. Không chúng tôi sẽ không cho họ lấy đất đâu”.
Hiện nay, có thực trạng đất nông nghiệp bị thu hồi để làm đường thì cũng là
lúc hàng ngàn ha đất nông nghiệp hai bên đường sẽ được thu hồi để trả các nhà đầu
tư xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị. Một trong số những dự án ấy chúng ta
không thể không kể tới Quốc lộ 5B (nối Hà Nội với Hải Phòng qua Hưng Yên, Hải
Dương). Đây là con đường cao tốc hiện đại nhất Việt Nam. Nhưng để có con
đường hiện đại ấy, thì diện tích đất bị thu hồi để làm quốc lộ 5B là 1000 ha. Diện
tích đất nông nghiệp bị thu hồi làm khu công nghiệp, khu đô thị khoảng 4000 ha
(nguồn: “Thu ít thì vui, thu hết lại hoảng…”, Vũ Minh, Báo nongnghiep.vn
16/3/2009).
Có thể nói, diện tích đất nông nghiệp của nước ta đang ngày càng suy giảm.
Đặc biệt, những dự án lấy đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, khu
đô thị,… đều tập trung ở những vùng đất màu mỡ của nước ta. Khi mà dân số nước
ta đang tăng lên, diện tích đất nông nghiệp lại có xu hướng giảm theo hằng năm,
điều này tất yếu sẽ gây ra hậu quả không tốt cho xã hội. Khi mà chúng ta còn rất
8nhiều diện tích đất ở trung du và miền núi thì các nhà quản lý không hướng các dự
án lên đó. Còn những vùng đất màu mỡ ở đồng bằng lại luôn vào trong tầm ngắm
của các nhà đầu tư nhằm xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị… Những mảnh
đất màu mỡ ấy một khi đã bị lấy đi thì không thể quay trở lại thành đất nông nghiệp
được nữa.
1.2 Thực trạng công tác đền bù cho người dân mất đất nông nghiệp
Việc thu hồi đất nông nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước ở Việt Nam hiện vẫn còn nhiều bất cập. Trong đó, chúng ta không thể
không nhắc tới việc bồi thường, hỗ trợ cho người dân khi nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp. Mặc dù đã có luật về bồi thường cho người dân khi bị thu hồi đất
nông nghiệp nhưng sự bất hợp lý trong vấn đề này cho thấy ở nhiều nơi chính
quyền địa phương đã không làm đúng như những gì trong luật. Đó là tình trạng
chính quyền địa phương lạm dụng làm cầu nối trung gian giữa doanh nghiệp với
dân để ăn chia chênh lệch thời gian sử dụng đất, diện tích đất cho thuê.
Nghiên cứu “Tranh chấp, khiếu kiện đất đai – một biểu hiện của xung
đột xã hội nông thôn trong những năm đổi mới” (nghiên cứu trường hợp tỉnh
Hà Tây) của tác giả Phan Văn Tân được tiến hành năm 2003 đã chỉ ra những sai
phạm của chính quyền ở đây về vấn đề quản lý đất đai: “Ở Hồng Hà, UBND Tỉnh
có quyết định số 989/QĐ-UB thu hồi 63578 m2 đất chuyển giao cho công ty cổ
phần xây dựng Anfal thuê để sử dụng sản xuất gạch Tynel; có thời hạn thuê là 30
năm. Quyết định do Phó chủ tịch UBND tỉnh ký. Nhưng sau đó, chưa đầy một
tháng, UBND tỉnh lại có công văn số2803/CV-UB-NL v/v đính chính văn bản, nêu
lý do: Do sơ xuất trong khi ban hành văn bản quyết định nay sửa lại thời gian thuê
từ 30 năm thành 50 năm”.
9Sự không đồng nhất trong cách làm việc của UBND tỉnh đã khiến cho người
dân thắc mắc. Điều này sẽ dẫn đến những xung đột trong xã hội. Mà hậu quả của
xung đột liên quan đến lợi ích của người dân thì không phải là nhỏ.
Lại có ý kiến của người dân cho rằng chính quyền địa phương cũng rất mập
mờ trong công tác cho thuê hoặc thu hồi đất:
“Ruộng chúng tôi được sở hữu 20 năm, đã dùng 7 năm rồi, cán bộ đến bảo
với chúng tôi cho doanh nghiệp thue đất 13 năm còn lại. Trong khi dân đồng ý với
cán bộ 13 năm thì doanh nghiệp ký hợp đồng thuê với chính quyền địa phương 30
năm. Sau này khi hợp đồng thuê đất hết chúng tôi biết hỏi ai? Yêu cầu là xã phải
trả lời là thuê hay thu hồi đất” (Nữ 45 tuổi- An Khánh)
Bên cạnh đó, ở nhiều nơi trong cả nước, hiện tượng chính quyền địa phương
làm mất đi uy tín của mình trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng. Nhiều địa
phương nôn nóng muốn địa phương mình có nhiều công trình, dự án phát triển, chỉ
đạo lập, xét duyệt quy hoạch tràn lan, không tính đến sự khả thi của dự án. Lợi ích
của một số cán bộ địa phương không để ý đến quyền lợi của người dân mà chỉ quan
tâm tới nhiệm kỳ của mình phải có khu công nghiệp: “Thấy các nơi họ có khu công
nghiệp, cụm công nghiệp thì mình cũng làm, cứ có đất là làm” (nam 50 tuổi- Lê
Lợi).
Cán bộ lãnh đạo chính quyền thôn, xã đã không tôn trọng quyền làm chủ tập
thể của người dân, coi thường tổ chức, né tránh trách nhiệm. Vấn đề tham nhũng,
quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ đã đến mức báo động: “Lòng dân
không hẹp nhưng sự vô cảm và tha hóa của cán bộ địa phương đã khiến chúng tôi
hao kiệt niềm tin”
Giá đền bù của các chủ đầu tư còn chưa thực sự hợp lý, có sự giải quyết đơn
lẻ với những hộ nông dân không đồng ý cho lấy ruộng của mình. Chính điều đó đã
10
gây nên sự bất bình trong dân chúng: “Ở khu du lịch Thiên Sơn- Suối Ngà, ban
đầu, doanh nghiệp tuyên bố là không đền bù, sau khi người dân lên Trung ương
khiếu tố người ta mới đền bù cho 2600đ/m2 đất canh tác (gồm cả hoa màu). Nhận
thấy sự vô lý, người dân góp tiền cho người đại diện về Trung ương khiếu tố tiếp,
giá đất lúc này được nâng lên 6600đ/m2, thấy chưa thỏa đáng, người dân lại tiếp
tục giữ đất, một lần nữa giá đền bù được nâng lên tới 8100đ/m2” (Nguồn :Nghiên
cứu của TS. Phan Văn Tân).
“Chúng tôi chấp hành đúng yêu cầu của cán bộ chính quyền, chấp nhận trao
đất cho công ty thì được 12 triệu đồng/sào. Trong khi đó những hộ không chịu thực
hiện theo quy định của hợp đồng này, lại được công ty trao thêm cả chục triệu
nữa”. (Cụ bà 65 tuổi- An Khánh)
Ngoài ra, trong những bài viết trên báo nongnghiep.vn với chủ đề: “Nông
dân mất đất- câu chuyện đã đến hồi gay cấn” còn chỉ ra rằng người nông dân là
người luôn chịu thiệt thòi nhất: “Tỉnh, huyện muốn giá đền bù đất thổ cư cao để dễ
giải phóng mặt bằng, nhưng họ lại muốn giá đất nông nghiệp thấp để dễ trải thảm
đón doanh nghiệp vào. Điều này để đạt mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giải
quyết sức ép chính trị, tăng thu ngân sách. Giá thấp, tỉnh huyện có biết nhưng vì lợi
ích mà họ bỏ qua”.
Sự thiệt thòi của người dân còn thể hiện rõ nét khi giá đền bù đất nông
nghiệp thì quá thấp. Trong khi đó, những mảnh đất nông nghiệp bị thu hồi sau khi
được quy hoạch lại có giá rất cao. Điều này đã tạo nên sự bất bình trong người dân:
“Chúng tôi quá thiệt thòi, các công ty sau khi đền bù giá quá thâớ, rồi bán
lại để thu bạc tỷ. Mỗi sào đất đền bù của chúng tôi không mua nổi vài m2 đất ở đó
sau khi bị thu hồi”(Nam 35 tuổi- An Khánh).
11
Như vậy, có sự bất cập trong việc chủ đầu tư lấy đất nông nghiệp của dân để
phục vụ lợi ích của mình. Người dân đã quan niệm rằng chủ đầu tư ép giá nên càng
khiếu kiện càng được hưởng lợi: “Cứ mỗi lần đi kiện là một lần được lên giá”.
Chính những việc làm sai trái của chính quyền địa phương cùng với các doanh
nghiệp đã góp phần tạo nên những khủng hoảng, xung đột trong xã hội về vấn đề
mất đất nông nghiệp nông thôn hiện nay. Phải chăng do chính sách còn nhiều kẽ hở
nên trong xã hội đã nảy sinh tình trạng người nông dân bị mất đất luôn cảm thấy
mình bị thiệt thòi? Để từ đó xuất hiện những cán bộ đang lợi dụng chức vụ của
mình để làm giàu bất chính từ việc thu hồi đất nông nghiệp của người dân. Sự tranh
chấp về lợi ích của người dân tất yếu sẽ dẫn tới những xung đột, khủng hoảng trong
xã hội.
1.3 Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp đã bị thu hồi:
Theo thống kê của bộ Tài Nguyên và Môi trường, trong vòng 5 năm 2001-
2005, tổng diện tích đất nông nghiệp của nước ta đã bị thu hồi chuyển sang đất phi
nông nghiệp tới 366.000 ha, chiếm 3,9% đất nông nghiệp đang sử dụng. Bình quân
mỗi năm thu trên 73.000 ha. Một trong những nơi, diện tích đất nông nghiệp bị lấy
đi 90-95 % để xây dựng các khu công nghiệp như ở Bắc Ninh. ( Nông dân mất đất-
câu chuyện đã đến hồi gay cấn- Mai Xuân Nghiên- nongnghiep.vn- 11/03/2008).
Đất nông nghiệp được lấy để thay vào đó là các khu công nghiệp, khu đô thị phục
vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Nhưng không phải nơi đâu khu công nghiệp cũng được mọc lên ngay. Mà có
những địa phương, các dự án lấy đất nông nghiệp để tiến hành xây dựng khu công
nghiệp lại trong tình trạng “quy hoạch treo”. Có một số dự án khác lại đem vào sử
dụng sai mục đích so với quy hoạch đang mỗi ngày một hiện diện ra trước mắt bà
con nông dân:
12
“Các doanh nghiệp chưa trả tiền xong đã bán đất cho người khác. 3- 4 năm
nay, nhiều lô đất xây xong rồi để đó. Đất của người nông dân thì 3- 4 vụ/ năm. Vậy
mà giao cho doanh nghiệp thì bỏ hoang. Xót xa lắm!” (Cụ ông 79 tuổi An Khánh).
Những ruộng đất nông nghiệp đáng lẽ có thể cho ra rất nhiều sản phẩm dưới
bàn tay của bà con nông dân. Tuy nhiên, những mảnh đất ấy khi đi vào trong các
dự án quy hoạch thì lại trở thành đất trống, đất bỏ hoang:
“Các đô thị, khu công nghiệp khi chưa triển khai thì để cho dân cày cấy kiếm
cái ăn, đằng này để đất trống đã 3-4 năm nay mà cũng không triển khai xây dựng”
(Nữ 45 tuổi- An Khánh).
Thực trạng những dự án “quy hoạch treo” trên mảnh đất nông nghiệp ở nước
ta hiện nay còn khá phổ biến. Những dự án ấy, được vẽ lên trên giấy tờ trong nhiều
năm rồi lại để đấy khiến cho biết bao những ruộng đất màu mỡ trở thành những
khu đất bỏ hoang. Trong khi có hàng t