Máy X-quang là một hệ thống thiết bị, trong đó bao gồm các thiết bị chủ yếu sau:
- Thiết bị tia X: gồm bóng X-quang, khối tạo cao thế, khối điều khiển.
- Thiết bị hiện ảnh gồm màn huỳnh quang, cat-xet, bìa tăng quang và phim.
- Thiết bị buồng tối như thùng rửa (hiện) và tráng (hãm) phim, đèn soi, đánh dấu phim, đồng hồ báo giờ và nhiệt kế.
- Thiết bị bảo vệ có cửa sổ kính chì, phòng ngăn tia có cửa sổ, áo và găng chì
Các thiết bị này tham gia vào quá trình tạo ảnh X-quang.
35 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6799 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Máy chụp X-Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
CẤU TRÚC CỦA MỘT HỆ THỐNG TẠO ẢNH QUANG TUYẾN
Máy X-quang là một hệ thống thiết bị, trong đó bao gồm các thiết bị chủ yếu sau:
- Thiết bị tia X: gồm bóng X-quang, khối tạo cao thế, khối điều khiển.
- Thiết bị hiện ảnh gồm màn huỳnh quang, cat-xet, bìa tăng quang và phim.
- Thiết bị buồng tối như thùng rửa (hiện) và tráng (hãm) phim, đèn soi, đánh dấu phim, đồng hồ báo giờ và nhiệt kế.
- Thiết bị bảo vệ có cửa sổ kính chì, phòng ngăn tia có cửa sổ, áo và găng chì…
Các thiết bị này tham gia vào quá trình tạo ảnh X-quang.
I. BÓNG X-QUANG
1. Nguyên lý hoạt động
- Bóng X-quang là linh kiện thiết yếu trong các thiết bị X-quang, nó hoạt động trên nguyên lý biến đổi năng lượng từ dạng này sang dạng khác.
- Một chùm tia điện tử đang chuyển động rất nhanh, khi gặp vật cản sẽ đột ngột giảm tốc độ. Tại thời điểm này động năng của chùm tia sẽ chuyển đổi.
+ Phần lớn (tới khoảng 99% trang thiết bị X-quang xét nghiệm) chuyển đổi thành nhiệt năng nung nóng vật cản.
+ Phần nhỏ chuyển đổi thành năng lượng tia X có bước sóng thẳng 10 – 100pm (10-12m) phát xạ qua cửa sổ của bóng.
2. Cấu tạo
- Bóng X-quang có thể xem như dạng đặc biệt của diốt chỉnh lưu chân không, bóng X-quang gồm các bộ phận chủ yếu sau:
+ Nguồn bức xạ điện tử - catốt.
+ Nguồn bức xạ tia X-Anốt, vật cản trên đường đi của chùm tia điện tử. Điện tích với chùm tia điện tử bắn vào gọi là điểm hội tụ. Đó chính là nguồn phát xạ tia X.
+ Vỏ thủy tinh (vỏ trong) bao quanh anốt và catốt, đã được hút chân không để tạo áp lực âm loại từ các phân tử khí cản trở trên đường đi của chùm tia điện tử.
+ Vỏ bóng (vỏ ngoài) thường bằng hợp kim nhôm phủ chì để ngăn ngừa tia X bức xạ theo những hướng không mong muốn có hại cho môi trường xung quanh và còn có tác dụng tản nhiệt. Ngoài ra trên vỏ còn bố trí cửa sổ tia X nơi ghép nối với hộp chuẩn trực và vị trí các đầu nối.
Hiện nay, hai loại bóng được ứng dụng phổ biến trong thiết bị X-quang là:
+ Bóng X-quang anốt cố định
+ Bóng X-quang anốt quay
II. KHỐI TẠO CAO THẾ
1. Khái niệm chung
Bóng X-quang chỉ phát xạ khi chùm tia điện tử bức xạ từ catốt của nó phải cố động năng đủ lớn. Muốn vậy, ta nối hai cực anốt, catốt của bóng với một nguồn điện áp cao thế có tự số khoảng từ 20KV đến 100KV. Điện áp này được tạo nhờ khối cao thế thường còn gọi là thùng cao thế. Thực chất hai tên gọi này có khác nhau đôi chút. Khối cao thế bao gồm biến áp cao thế và chỉnh lưu cao thế. Trong đó, thùng cao thế, ngoài hai cấu kiện trên còn chứa biến thế cấp nguồn sợi đốt, rơ le chọn bóng và một vài linh kiện bảo vệ khác nữa cũng như các cực đầu vào, ra.
2. Khối cao thế cao tần:
Như đã nói ở trên, các khối cao thế trong các máy X-quang truyền thống mà ở đó nguồn điện cung cấp cho khối chỉnh lưu cao thể được lấy từ nguồn điện lưới có tần số 50Hz hoặc 60Hz đều có những nhược điểm. Để khắc phục những nhược điểm này, các nhà sản xuất đã ứng dụng kết hợp giữa nguồn điện xoay chiều có tần số cao và đã sản xuất loại máy X-quang thế hệ mới đó là máy X-quang cao tần.
III. ĐIỀU KHIỂN THAM SỐ TRONG THIẾT BỊ X-QUANG
Khi tiến hành các xét nghiệm X-quang, người sử dụng phải kiểm soát được liều lượng tia X sao cho phù hợp với từng đối tượng và bệnh lý để đạt được ảnh có chất lượng tốt nhất. Liều lượng tia X quyết định bởi các tham số có sẵn:
+ Trị số điện áp cao thế - KV
+ Trị số dòng điện bóng X-quang –mA
+ Thời gian chụp – s (sec)
Vì vậy trong bất kỳ máy X-quang nào, dù loại truyền thống hay cao tần, dù đơn giản hay phức tạp đều cần phải có ba loại mạch để điều khiển, đo lường và chỉ các tham số cơ bản trên.
IV. THIẾT BỊ ĐỊNH VỊ CÓ HỘP CHUẨN TRỰC, LƯỚI VÀ SÀNG, BÀN BỆNH NHÂN VÀ CỘT BÓNG…
Như đã nói ở trên, muốn có ảnh hưởng X-quang, chất lượng cao, ngoài việc lựa chọn các tham số liên quan tới công suất phát xạ như KV, mA, s, còn cần thiết phải khu trú chùm tia X vào vùng cần thăm khám, phải bố trí sao cho khoảng cách giữa bóng và phim thích hợp với từng loại xét nghiệm, phải loại bỏ ảnh hưởng của phát xạ thứ cấp… Những điều này có thể nhờ các thiết bị tạo dạng và định vị chùm tia X như hộp chuẩn trực, lưới bàn bệnh nhân và cột bóng.
1. Hộp chuẩn trực và lưới
Với mục đích tăng độ đối quang nghĩa là tăng chất lượng ảnh và giảm nhiều tia tác động vào người bệnh nhân cần phải xử lý chùm tia X phát ra từ bóng X-quang. Hộp chuẩn trực và lưới được dùng với mục đích này.
a. Hộp chuẩn trực
- Hộp chuẩn trực còn gọi là di-aphram (diaphragam) là một dụng cụ đặt giữa bóng X-quang và người bệnh, có chức năng giới hạn chùm tia theo một kích thước do người vận hành quyết định.
- Hộp chuẩn trực có cấu trúc như ống kính máy ảnh, gồm các tấm chì gắn với các cơ cấu điều khiển bằng tay hoặc động cơ điện, lỗ mở của hộp có thể có dạng hình chữ nhật hoặc hình tròn và một hệ thống quang bao gồm đèn chiếu và gương giúp cho người vận hành có căn cứ để điều chỉnh kích thước và định vị chùm tia X. Kích thước chùm tia cần được chọn càng nhỏ càng tốt, miễn là bao trùm được bộ phận cần thăm khám, việc giảm kích thước dẫn tới giảm liều tia và giảm lượng phát xạ thứ cấp có nghĩa là tăng độ đối quang và chất lượng ảnh.
Minh họa mối tương quan giữa kích thước chùm tia X với sự phát xạ thứ cấp.
Ngoài ra để giảm lượng phát xạ thứ cấp hơn, cần giảm bề dày của vùng thăm khám bằng cách nén vùng này lại. Như trên hình vẽ, ở trường hợp thứ nhất, lượng phát xạ thứ cấp rất cao, nó được giảm cùng với việc giảm kích thước chùm tia trong trường hợp thứ 2 và giảm hơn nữa khi nén nhỏ đối tượng như trong trường hợp thứ 3.
b. Lưới
- Nó dùng để chống tia phát xạ thứ cấp, nó được đặt giữa người bệnh và caxet phim. Lưới có cấu trúc gồm các dải bằng chì rất mảnh xếp song song với nhau và hướng về điểm hội tụ, chen giữa các dải chì này là vật liệu có độ hấp thụ tia không đáng kể như nhôm, baketit sao cho chùm tia bức xạ chính (sơ cấp) có thể truyền qua trong khi phần lớn lượng tia bức xạ thứ cấp bị hấp thụ.
- Có hai loại lưới, đó là lưới cố định và lưới chuyển động. Lưới cố định có cấu tạo đơn giả nhưng trên ảnh còn lưu lại bóng mờ của các dải chì (còn gọi là lưới ly-sô-lin), điều này thực chất không ảnh hưởng nhiều tới việc chẩn đoán vì người đọc phim đã được biết trước. Với ảnh đòi hỏi chất lượng cao, nhiều chi tiết thì phải sử dụng loại lưới chuyển động để loại bỏ ảnh hưởng này. Loại lưới này chuyển động kết hợp giữa lưới với một cơ cấu có tên gọi là bucky, khi có lệnh chuẩn bị chụp, lưới được đưa vào trạng thái chuyển động đu đưa với tốc độ cao, khi chụp hình ảnh của các dải chì sẽ được làm mờ đi.
Để đáp ứng với các nhu cầu khám nghiệm khác nhau, các nhà sản xuất đã chế tạo ra một số loại lưới có những chỉ tiêu kỹ thuật khác nhau như số lượng dải chì trên một cm thường từ 20 đến 40, tỷ lệ giữa 2 dải chì thường có ba giá trị là 5/1, 10/1, 15/1. Các tỷ lệ này ứng với các mức năng lượng bức xạ tia X khác nhau có nghĩa là tương ứng với các trị số KV khác nhau. Với KV thấp dùng loại lưới có tỷ lệ thấp và ngược lại. Khoảng cách từ tiêu điểm tới phim cũng cần được chọn tương ứng với các giá trị trên: 60cm ¸ 80cm, 100cm ¸ 120cm và 150cm.
Lưới nói chung là phụ kiện đắt tiền và cũng dễ bị hư hỏng và mất tác dụng nếu bị cong vênh. Một khi lưới đã bị hỏng thì không thể sửa chữam tuy vậy nếu được bảo quản tốt thì lưới có thể dùng được lâu dài, nếu không được lắp sẵn vào thiết bị thì cần phải bảo quản lưới cẩn thận trong bao bì bằng chất dẻo.
Cấu trúc của lưới và tác dụng hấp thụ tia phát xạ thứ cấp của nó
2- Bàn bệnh nhân và cột bong
Bàn bệnh nhân và cột bong hoặc giá treo phải phối hợp với nhau sao cho có thể dịch chuyển nhẹ nhàng, không rung động tại bất kỳ vị trí nào. Vị trí cột và bóng cũng phải được cố định bằng chốt hoặc phanh từ điện.
Bàn bệnh nhân với màn huỳnh quang, hộp caxet và cột bong di động
V. THIẾT BỊ GHI ẢNH
Khi chiếu, ảnh X-quang được ghi nhờ màn huỳnh quang trong máy X-quang cổ điển hoặc nhờ bóng khuếch đại ảnh (image intensifier) trong hệ thống máy X-quang tăng sang truyền hình.
Khi chụp ảnh sẽ được ghi trên phim X-quang, để tăng hiệu suất của tia X, người ta thường sử dụng một cặp bìa tăng quang, chúng được đặt trong caxet.
1- Phim X-quang
Phim X-quang được chế tạo từ một tấm chất dẻo trong suốt, hai mặt phủ một lớp nhũ tương đặc biệt bao gồm thành phần hoạt hóa chủ yếu là các hạt bromua bạc. Những hạt bromua bạc này sẽ bị kích hoạt bởi ánh sáng hoặc tia X. Vì vậy lớp nhũ tương này có đặc tính này là nhạy cảm với ánh sang trắng và tia X và sẽ biến thành màu đen khi có ánh sáng hoặc tia X chiếu vào (sau khi được rửa bằng thuốc hiện, hãm phim).
Hiệu suất chuyển đổi tia X thành hình ảnh của phim thấp hơn nhiều so với hiệu suất chuyển đổi ánh sáng nên trong thực tế cần phải dùng them một cặp bìa tăng quang để tăng cường hiệu suất này. Lớp nhũ tương phủ trên bề mặt phim có đặc tính mềm và dễ bị hư hỏng nếu không được bảo quản tốt.
Một phim còn tốt nếu khi không có ánh sáng hoặc tia X chiếu vào thì sau khi rửa phim sẽ trở thành trong suốt, không có những mảng hoặc đốm mờ. Để bảo quản, duy trì chất lượng phim, cần phải cất giữ và sử dụng phim một cách hợp lý theo một số quan điểm quan trọng dưới đây:
+ Trên vỏ mỗi hộp phim đều có ghi hạn sử dụng. Sau thời hạn này phim sẽ không bảo đảm chất lượng ảnh. Vì vậy cần có kế hoạch hoa sắm và sử dụng phim hợp lý để phim không bao giờ bị quá hạn.
+ Phim phải được cất giữ nơi có nhiệt độ thấp (khoảng 15-25°C). Nếu nhiệt độ nơi cất phim quá cao thì phim sẽ bị hỏng trước khi hết thời hạn dùng ghi trên vỏ hộp.
+ Không được cất giữ phim trong hoặc gần buồng X-quang vì tia X có thể lọt vào làm hỏng phim. Nơi cất phim phải là nơi khô ráo, sạch, không bị ảnh hưởng của các loại khí như khí dung đun nấu ammoniac…
+ Phim X-quang cũng nhạy cảm với lực nén vì vậy không được xếp chồng lên nhau mà nên xếp chúng liền kề bên nhau.
+ Phim cũng dễ bị xước nên không được chạm vào các vật sắc như lưới dao, kéo, móng tay… lên bề mặt phim.
2- Caxet và bìa tăng quang
a) Bìa tăng quang:
Bìa tăng quang có tác dụng làm tăng hiệu suất chuyển đổi tia X thành hình ảnh. Nó thường có màu trắng, chứa các hạt muối tungsten can-xi, các hạt muối này sẽ phát sáng màu xanh là màu nhạy cảm nhất đối với phim X-quang.
Khi tia X đi qua, các tấm tăng quang sẽ phát sáng (chuyển đổi bức xạ tia X thành ánh sáng), cường độ ánh sáng phụ thuộc vào cường độ chùm tia, do vậy tạo được ảnh của đối tượng cần thăm khám lên trên phim. Nhờ có các tấm bìa tăng quang mà hiệu suất sử dụng tia X tăng lên nhiều vì:
+ Khả năng hấp thụ tia X của tấm tăng quang cao hơn phim khoảng từ 20 – 130 lần tùy thuộc vào cường độ bức xạ.
+ Mỗi photon tia X khi tác động vào tấm tăng quang sẽ tạo ra nhiều photon ánh sáng và mỗi photon ánh sáng này sẽ tác động vào các hạt muối bromua bạc khiến chochúng chuyển màu thành đen khi phim được rửa, khả năng tăng trưởng này vào khoảng 60 lần:
Hình ảnh mặt cắt của một caxet chưa phim và hai tấm bìa tăng quang và sự phát quang thứ cấp gây ra bởi chính bìa tăng quang.
Tuy nhiên tấm tăng quang cũng có nhược điểm là khi phát quang các hạt muối tungsten cũng tạo ra sự phát quang thứ cấp từ những hạt muối tungsten can-xi lân cận. Điều này làm giảm bớt độ sắc nét của ảnh. Vì vậy các nhà sản xuất đã chế tạo nhiều loại tấm tăng quang có các dặc trưng thích hợp cho những mục đích sử dụng khác nhau. Những tấm tăng quang có lớp phủ mỏng và hạt muối tungsten can-xi mịn thì có độ tăng trưởng thấp tuy nhiên độ phân giải lại cao, ngược lại tấm tăng quang có lớp phủ dày và hạt muối tungsten can-xi thô đạt độ tăng trưởng cao nhưng ảnh có độ phân giải thấp.
Tấm tăng quang thuộc loại vật liệu khá đắt tiền, chúng cũng dễ bị biến chất hoặc hư hỏng nên cần rất thậnt trọng trong khi sử dụng. Những vết xước hoặt đốm màu trên chúng sẽ tạo ra nhiễu trên ảnh. Bìa tăng quang phải được thường xuyên bảo quản tại nơi khô ráo, sạch sẽ và định kỳ lau chùi bằng dung dịch nhẹ.
b) Caxet:
Caxet là một hộp dẹt chứa phim và hai tấm tăng quang, hai tấm này dính vào hai mặt của caxet, hai mặt caxet gắn với nhau bởi bản lề và có khóa cố để cố định. Caxet chỉ ngăn không cho ánh sáng chiếu vào phim còn vẫn để tia X truyền qua bề mặt của nó để tới phim. Caxet đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng ảnh X-quang.
Caxet và cách nạp, tháo phim
VI. THIẾT BỊ VÀ DỤNG CỤ BUỒNG TỐI
Phim X-quang được xử lý (rửa và tráng) trong buồng tối. Đây cũng là khâu quan trọng trong việc đảm ảo chất lượng ảnh quang tuyến X.
Buồng tối phải đạt các chỉ tiêu sau:
+ Tuyệt đối tối, có nghĩa là hoàn toàn không để lọt ánh sáng, lối vào buồng phải có hai cửa để khi mở một cửa ánh sáng vẫn không thể lọt vào uồg.
Phải được thông gió tốt để thái loại hơi hóa chất bốc ra từ thuốc hãm hiện và làm giảm độ ẩm trong buồng.
+ Vật liệu xây dựng và nội thất phải chịu được ẩm và sự ăn mòn hóa chất.
+ Phải có đường cấp thoát nước.
Ngoài những chỉ tiêu trên, buồng tối thông thường phải có các trang thiết bị sau:
+ Thùng rửa, tráng phim
+ Bàn lắp, tháo phim
+ Máy sấy phim
+ Khoang chuyển giao caxet
+ Đồng hồ báo giờ
+ Đèn soi trong buồng tối
+ Quạt thông gió
+ Giá treo phim
Ngoài ra tại những khoa X-quang có lưu lượng bệnh nhân cao có thể phải dùng một máy rửa phim tự động thay cho những thùng rửa phim và máy sấy phim.
PHẦN II
CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA CÁC THÀNH PẦN
TRONG HỆ THỐNG MÁY X-QUANG
Sơ đồ khối chức năng chủ yếu của một thiết bị X-quang
I. BÓNG X-QUANG
1- Chức năng: Biến đổi năng lượng từ dạng này sang dạng khác.
2- Cấu tạo: Gồm hai loại bong được ứng dụng phổ biến trong thiết bị X-quang là:
+ Bóng X-quang anốt quay
+ Bóng X-quang anốt cố định
a) Bóng X-quang anốt cố định:
* Catốt bao gồm sợi đốt và giá đỡ bằng kim loại để đỡ sợi đốt đồng thời còn tạo khe hội tụ.
Sợi đốt được chế tạo bởi dây Vonfram có nhiệt độ nóng chảy rất cao (3360°C). Sợi đốt có dạng hình xoắn ốc để tạo diện tích bức xạ điện tử rộng.
Để hội tụ chùm tia điện tử, người ta đặt sợi đốt trong lòng một khe của giá đỡ và chùm tia điện tử bức xạ từ sợi đốt qua khe này.
Kích thước, hình dạng của sợi đốt và khe được thiết kế và chế tạo rất chu đáo và sợi đốt được định vị rất cẩn thận trong khe sao cho chùm tia điẹn tử tập trung (hội tụ) tại một điểm với diện tích rất nhỏ trên bề mặt anốt. Diện tích mà chùm tia điện tử hội tụ đó chính là nguồn phát xạ tia X. Điểm hội tụ thường có dạng hình chữ nhật, chiều dài bằng 3 – 4 lần chiều rộng và diện tích của điểm hội tụ khoảng 1 – 2 mm2 (tiêu điểm nhỏ) tới 10 – 15 mm2 (tiêu điểm lớn).
Catốt có hai loại: hội tụ đơn và hội tụ kép.
Loại catốt hội tụ đơn chỉ gồm một sợi đốt và một khe bức xạ. Trong khi đó, loại hội tụ kép bao gồm hai sợi đốt đặt trong hai khe bức xạ tương ứng với hai diện tích to và nhỏ. Hai khe này lại được bố trí kề nhau trong mặt phẳng đứng hoặc ngang.
Nguồn điện cấp cho sợi đốt là nguồn điện áp thấp cỡ vài chục vôn với dòng từ vài A đến mười A. Để đảm bảo độ cách điện cao và làm nguội, biến thế cấp điện cho sợi đốt thường được đặt trong thùng cao thế cùng với biến thế cao thế.
* Anốt: có nhiệm vụ hứng chùm tia điện tử bắn vào, rồi phát xạ chùm tia X. Chùm tia này càng tập trung càng tốt để tạo được hình ảnh rõ.
Anốt gồm một miếng Vonfram dày khoảng 2mm, hình chữ nhật hoặc tròn có diện tích lớn hơn diện tích điểm hội tụ một chút, miếng Vonfram này được gắn vào một giá đỡ bằng đồng giúp tán nhiệt nhanh. Bề mặt anốt nằm dốc chéo so với trục dọc của bóng nên chùm tia X sẽ vuông góc với trục bóng.
* Vỏ thủy tinh: vỏ trong có hình dạng hình trụ bao quanh và đồng thời làm giá đỡ catốt và anốt. Vỏ này được chế tạo từ loại thủy tinh đặc biệt có khả năng chịu nhiệt cao, có độ cách điện cao, có đồng nhất với sự dãn nở của các điện cực và chịu được áp lực chân không lớn.
Vỏ ngoài bao quanh bóng X-quang, nó có ba nhiệm vụ:
Chỉ cho tia bức xạ qua cửa sổ.
Hấp thụ tia X theo các hướng có hại cho người bệnh và môi trường xung quanh.
Chống điện giật.
Vỏ ngoài được chế tạo từ nhôm, hợp kim nhôm hoặc thép, bề mặt trong của vỏ được tráng một lớp chì đủ dày để hấp thụ tia X, hạn chế sự phát xạ tia X ra xung quanh (từ cửa số) tới mức cho phép không gây nguy hiểm cho bệnh nhân và cho môi trường xung quanh.
Để đảm bảo độ cách điện, người ta đổ đầy dầu cao thế vào khoang giữa hai lớp vỏ. Ngoài tác dụng cách điện, dầu còn có tác dụng tản nhiệt và làm mát bóng.
Anốt
Catốt
Khoang dãn nở
Bóng X-quang
Cửa sổ phát tia
Vỏ ngoài phủ chì
Dầu
Tới biến thế sợi đốt
Khe hội tụ
Chùm tia điện tử
Cấu trúc bóng X-quang anốt cốt định
Khi bóng hoạt động, nó sẽ nóng lên khiến cho dầu dãn nở nên một phía đầu vỏ phải có một khoang dãn nở chế tạo bởi màng cao su hình lồng xếp. Để báo động tình tráng bóng quá nóng do hoạt động lien tục, người ta gắng một công tắc hành trình vào bề mặt khoang dãn nở. Khi khoang dãn nở nở tới mức nhất định thì công tắc tác động đóng mạch phát tín hiệu cảnh báo.
* Phạm vi ứng dụng của bống anốt cố định:
Trong bóng X-quang anốt cố định, chùm tia điện tử luôn bắn vào một điểm cố định trên bề mặt anốt. Do vậy làm cho nhiệt độ tại điểm này tăng lên. Điều này hạn chế việc tăng công suất phát xạ (mA của bóng). Vì vậy ngày nay loại bóng X-quang anốt cố định chỉ còn được dùng trong các thiết bị X-quang nhỏ, di động hoặc trong máy X-quang răng có dòng tối đa khoảng 100mA.
b. Bóng X-quang anốt quay:
Để khắc phục những nhược điểm của bóng X-quang anốt cố định, người ta đã chế tạo ra loại bóng X- quang anốt quay. Khi anốt quay với tốc độ lớn, chùm tia điện tử bắn vào anốt không phải tại một điểm cố định mà trên cả hình vành khăn, hơn nữa hình vành khăn này lại quay nhiều vòng trong suốt thời gian phát tia. Vì vậy diện tích điểm hội tụ hay nói cách khác diện tích phát xạ tia X nhỏ hơn diện tích tản nhiệt rất nhiều. Nhờ có diện tích tản nhiệt lớn, bóng X-quang anốt quay có thể hoạt động với dòng lớn. Do vậy tăng được công suất phát xạ tia X (mA).
Cấu tạo của nó có cấu trúc tương tự như ở bóng X-quang anốt cố định như catốt cũng có hội tụ đơn và hội tụ kép, vỏ thủy tinh (vỏ trong), vỏ ngoài… Ngoài ra nó cũng có sự khác nhau cơ bản ở cấu trúc của catốt và anốt như:
+ Catốt: Trong bóng X-quang, anốt cố định, chùm tia điện tử trùng với trục dọc bóng trong khi đó bóng X-quang anốt quay chùm tia này lại đi song song, cách một khoảng.
* Anốt: Ở đây anốt không đứng yên mà quay với tốc độ lớn từ 3000 – 9000 vòng/phút, 150 – 150 vòng/gy. Nghĩa là thời gian chụp xảy ra trong vòng 0.1s thì anốt quay 5 vòng.
Anốt gồm một đĩa được chế tạo bởi Vonfram hoặc bằng Molipden phủ Vonfram hoặc phủ hợp kim Vonfram, Giecmani. Đĩa này được gắn vào một đế Molipden để cách nhiệt với roto. Mặt kí của đế Molipden được gắn với roto của động cơ.
Mặt đĩa anốt không phẳng mà vát chéo ở rìa, nơi chùm tia điện tử bắn vào, góc vát từ 15 – 200 tùy theo loại bóng. Trục của roto có gắn một vòng bi, để bôi trơn vòng bi này được mạ bạc hoặc chì chứ không tra dầu vì sẽ làm hỏng độ chân không của bóng. Anốt, rôto, vòng bi được đặt trong vỏ thủy tinh. Bên ngoài sát với rôto là các cuộn dây và lõi sắt của stato.
Loại bóng X-quang anốt quay được dùng hầu hết các hệ thống máy X-quang hiện tại, công suất từ loại thấp như trong các máy di động (dòng khoảng 100mA) đến trung bình (dòng khoảng 300-600 mA) và lớn (dòng khoảng 800 – 1000mA).
1. Stato
2. Rato
3. Đĩa anốt
4. Chấm hội tụ
5. Catốt và sợi đốt
6. Difram
7. Phim X-quang
Cấu trúc bóng X-quang a nốt quay
II. KHỐI TẠO CAO THẾ
* Có hai loại: Khối cao thế và khối cao thế cao tần.
A. Khối cao thế: Bao gồm biến áp cao thế, chỉnh lưu cao thế.
1. Biến áp cao thế
a. Chức năng:
Biến áp cao thế có nhiệm vụ tăng điện áp nguồn (220V hoặc 380V) lên tới hàng trăm KV (20KV – 120KV) nên đây là biến thế tăng áp. Nó có thể là biến thế một pha hoặc ba pha tùy theo yêu cầu chỉnh lưu cao thế.
b. Cấu tạo:
Gồm có hai cuộn dây, nếu là biến thế một pha hoặc 6 cuộn nếu là biến thế ba pha. Chúng được quấn quanh lõi sắt silic.
Bao quanh cuộn sơ cấp (nối với nguồn AC) thường là một lớp vỏ bọc bằng đồng không khép kín. Lớp vỏ này dùng với mục đích an toàn phòng khi các lớp cách điện bị hỏng, điện thế cao sẽ phóng qua lớp này xuống đất.
Cuộn thứ cấp được cuốn làm hai nửa. Điểm giữa chúng được nối đất. Cách bố trí