Tăng trưởng kinh tếlà một trong những mục tiêu quan trọng mà bất kì quốc gia nào
cũng muốn đạt đến. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, không hoàn toàn giống nhau vềnhững điều
kiện đểphát triển. Có những quốc gia rất được ưu ái, có nhiều thuận lợi đểphát triển,
đặc biệt là vềmặt tựnhiên, họcó nguồn tài nguyên phong phú, tạo bước đẩy đưa nền
kinh tếphát triển cao. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều những quốc gia được xếp vào danh
sách những nước nghèo tài nguyên, mà Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, là những ví dụ
điển hình. Nhưchúng ta biết, thực tếhiện nay đã cho thấy những sựthật rất trái ngược
nhau, ởmột nước có nhiều điều kiện thuận lợi đểphát triển đất nước thì lại có nền kinh tế
chưa thật sựphát triển nhưnhững gì mong đợi, nói một cách thẳng thắn hơn, họvẫn còn
trong tình trạng kém phát triển. Nhưng những gì mà bạn nhìn thấy ởNhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore,.thì đây lại là một khác biệt lớn. Họcó một nền kinh tếphát triển cao,
nằm trong nhóm những con rồng châu á, GDP bình quân đầu người cao, Vậy, con
đường phát triển mà họ đi ra sao? Họ đã chọn mô hình tăng trưởng kinh tếnào đểcó
được những thành công nhưngày hôm nay? Có những điểm tương đồng hay khác biệt
nào giữa những con đường phát triển ởnhững quốc gia Đông Á này?
Đi tìm lời giải cho những bài toán trên, nhóm chúng tôi đã chọn đềtài: “ Mô hình
tăng trưởng kinh tếNhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Những điểm tương đồng và
khác biệt”
37 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4695 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình tăng trưởng kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore - Những điểm tương đồng và khác biệt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TIỂU LUẬN
Mô hình tăng trưởng kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore. Những điểm tương đồng và khác biệt
2
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu quan trọng mà bất kì quốc gia nào
cũng muốn đạt đến. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, không hoàn toàn giống nhau về những điều
kiện để phát triển. Có những quốc gia rất được ưu ái, có nhiều thuận lợi để phát triển,
đặc biệt là về mặt tự nhiên, họ có nguồn tài nguyên phong phú, tạo bước đẩy đưa nền
kinh tế phát triển cao. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều những quốc gia được xếp vào danh
sách những nước nghèo tài nguyên, mà Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,…là những ví dụ
điển hình. Như chúng ta biết, thực tế hiện nay đã cho thấy những sự thật rất trái ngược
nhau, ở một nước có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước thì lại có nền kinh tế
chưa thật sự phát triển như những gì mong đợi, nói một cách thẳng thắn hơn, họ vẫn còn
trong tình trạng kém phát triển. Nhưng những gì mà bạn nhìn thấy ở Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore,..thì đây lại là một khác biệt lớn. Họ có một nền kinh tế phát triển cao,
nằm trong nhóm những con rồng châu á, GDP bình quân đầu người cao,…Vậy, con
đường phát triển mà họ đi ra sao? Họ đã chọn mô hình tăng trưởng kinh tế nào để có
được những thành công như ngày hôm nay? Có những điểm tương đồng hay khác biệt
nào giữa những con đường phát triển ở những quốc gia Đông Á này?
Đi tìm lời giải cho những bài toán trên, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài: “ Mô hình
tăng trưởng kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore. Những điểm tương đồng và
khác biệt”
3
CHƯƠNG I: CÁC LÝ THUYẾT VỀ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
1.1 Giới thiệu chung:
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế phổ biến của thế giới hiện nay. Tuy nhiên trong
nền kinh tế thế giới, con đường phát triển kinh tế thị trường là muôn hình, muôn vẻ. Có
những quốc gia phát triển kinh tế thị trường theo con đường cổ điển hay tuần tự như các
nước Âu- Mỹ, nhưng cũng có những quốc gia phát triển kinh tế thị trường theo con
đường rút ngắn. Các nhà kinh tế học đã chỉ ra các kiểu rút ngắn, chẳng hạn như Nhật Bản
là rút ngắn cổ điển, còn NICs là rút ngắn hiện đại. Mỗi quốc gia có một mô hình tăng
trưởng riêng của nó. Trong đó có sự nổi lên của các quốc gia Đông Á, được ví như những
con rồng châu Á với tốc độ tăng trưởng vượt bậc. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore là một
trong những con rồng đó.
Đề tài của chúng tôi nghiên cứu về mô hình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore qua các thời kỳ đồng thời tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt
nhằm đưa ra cái nhìn rõ hơn về sự phát triển thần kỳ của các nước trên.
1.2 Khái niệm tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
(PCI) trong một thời gian nhất định. Nói cách khác tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng
sản phẩm xã hội (tính toàn bộ hay tính bình quân đầu người) trong một thời gian nhất
định.
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản sản phẩm
trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản
xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một
năm tài chính).
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của
tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời
gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc
nội cộng với thu nhập ròng.
Tăng trưởng kinh tế là sự mở rộng sản lượng bởi một sự gia tăng các hoạt động kinh
tế sử dụng các công nghệ sản xuất hiện có.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ của một nước
ở một thời điểm nào đó trong điều kiện có công ăn việc làm đầy đủ.
Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số
quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu
người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
1.3 Mô hình tăng trưởng Kinh tế:
Mô hình tăng trưởng kinh tế, có thể hiểu một cách nôm na, đó là cách thức tổ chức
huy động và sử dụng các nguồn lực để đảm bảo có sự tăng trưởng về kinh tế qua các
năm, với một tốc độ hợp lý. “Cách thức” nói ở đây là rất đa dạng, bao gồm cả đầu vào (là
gia công, sản xuất, chế biến hay dịch vụ là chủ yếu); đầu ra (hướng nội hay hướng ngoại
4
là chủ yếu); phát triển các vùng, miền, các loại hình doanh nghiệp, tập đoàn; sự phối hợp
giữa Nhà nước và thị trường trên từng lĩnh vực… Lựa chọn theo cách nào, áp dụng mô
hình nào là tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, tình hình cụ thể ở mỗi nước trong mối
quan hệ với thế giới đương đại và được quyết định bởi ý chí chủ quan của lãnh đạo mỗi
nước.
Quá trình tăng trưởng kinh tế có thể có nhiều mô hình khác nhau như tăng trưởng
kinh tế hướng nội, tăng trưởng kinh tế hướng ngoại hoặc sự kết hợp của cả hai mô hình
này tùy điều kiện và sự lựa chọn chiến lược của các quốc gia. Thực tiễn tăng trưởng kinh
tế đã chứng minh những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và thể hiện được tính thần
kỳ trong lịch sử phát triển là các nền kinh tế hướng ngoại như trường hợp của Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore,...Trong khoảng thời gian ngắn, các nền
kinh tế này được công nghiệp hoá nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước
này có thể đạt tới hai con số trong nhiều năm liên tục và nhanh chóng biến các nước này
thành các nước công nghiệp hoá. Hiện tại, trường hợp của Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và
Nga (nhóm BRIC) đang thể hiện sự quá trình tăng trưởng cao tiềm tàng và ổn định trong
nền kinh tế toàn cầu hoá. Nguồn lực tăng trưởng của các nước này là điều kiện nhân khẩu
thuận lợi, cải cách mạnh cơ cấu kinh tế và khai thác triệt để động lực của toàn cầu hoá.
Như vậy tăng trưởng kinh tế là quá trình tích luỹ giá trị gia tăng của một nền kinh tế
từ các nguồn lực trong và ngoài nước và nó phải được thúc đẩy bằng những động lực đủ
mạnh của chính sách, lòng tự hào dân tộc hoặc những yếu tố khác trong điều kiện toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu mà nhiều quốc
gia kỳ vọng trong vòng chưa đến 10 năm tổng sản phẩm quốc nội tăng lên gấp đôi như
trường hợp của nền kinh tế Hoa Kỳ trong hoảng thời gian 1992- 2000, tổng sản phẩm
quốc nội của nước này đã tăng lên gấp đôi nhờ dựa vào việc chuyển dịch mạnh cơ cấu từ
cơ cấu kinh tế công nghiệp sang cơ cấu kinh tế tri thức.
Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng của các quốc gia không phải lúc nào cũng thành
công. Có những quốc gia thực hiện chiến lược tăng trưởng hướng nội không thành công
như Băng-la-đét, Mi-an-ma...Có những quốc gia thực hiện tăng trưởng hướng ngoại
nhưng chủ yếu dựa vào vay nợ nước ngoài sử dụng thiếu hiệu quả đã rơi vào gánh nặng
nợ nước ngoài đặc biệt là các nước châu Mỹ La tinh như Ác-hen-ti-na...Có quốc gia thực
hiện tăng trưởng nhưng rơi vào bẫy thu nhập trung bình và chưa có sự cải thiện đáng kể
thu nhập như Thái Lan, Phi-lip-pin, Ma-lai-xi-a...
Một trường hợp khác của tăng trưởng không thành công là trường hợp quốc gia công
nghiệp hoá cao (điển hình là Hà Lan vào những năm 1970) tìm thấy một mỏ dầu và do
yêu cầu của khai thác dầu là mặt hàng có lợi nhuận cao cho nên một khối lượng lớn các
nguồn lực từ các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao đã di chuyển sang ngành
dầu mỏ là ngành có trình độ công nghệ trung bình. Điều này mặc dù có làm tăng GDP
song cơ cấu kinh tế đã bị lệch lạc thể hiện ở các ngành không phải công nghệ cao được
mở rộng trong khi các ngành công nghệ cao được mở rộng không tương xứng với mục
tiêu đặt ra của công nghiệp hoá. Đây là quá trình tăng trưởng ngược so với mong đợi
trong công nghiệp hoá hay còn gọi là tăng trưởng không có tương lai. Mà một điển hình
có thể nhắc đến là Gha-na, một đất nước đối mặt với điều kiện đặc thù trong lựa chọn
chiến lược phát triển. Vào đầu những năm 1960, thu nhập bình quân đầu người của Gha-
5
na và Hàn Quốc ngang nhau. Song sau 30 năm, Hàn Quốc trở thành một nước công
nghiệp hoá mới trong khi đó Gha-na vẫn là một nước chậm phát triển. Nguyên nhân của
tình hình này là do Gha-na chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế phát huy có
hiệu quả các ngành có lợi thế so sánh sang một nền kinh tế phát huy các ngành không có
lợi thế so sánh. Trong khi đó, Hàn Quốc lại tập trung phát triển mạnh các ngành có lợi thế
so sánh và sử dụng có hiệu quả chính sách thương mại chiến lược.
Mô hình nhà nước tăng trưởng: Đây có thể được hiểu là một sự phối hợp giữa nhà
nước, các ngành kinh tế và các thể chế tài chính. Trong đó, Nhà nước hướng dẫn, chỉ
đạo, điều tiết hoạt động kinh tế nhưng vẫn tuân thủ luật chơi của nền kinh tế thị trường.sử
dụng hợp lí các nguồn lực, các yếu tố phục vụ cho sự phát triển của đất nước để tạo ra
một sự tăng trưởng cao trong tương lai.
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA NHẬT
BẢN, HÀN QUỐC VÀ SINGAPORE:
2.1 Nhật Bản:
2.1.1 Tổng quan:
Tổng quan về Nhật Bản:
• Vị trí địa lý: Diện tích 377, 835 km2; Thủ đô Tokyo; Địa hình bao gồm hải đảo và
miền núi; Khí hậu từ cận nhiệt tới ôn hòa.
• Dân cư: dân số khoảng 127,08 triệu người (năm 2010); Tỷ lệ dân số biết chữ 99%;
Tỷ trọng các ngành: dịch vụ 70%, công nghiệp 26%, nông nghiệp 4%.
6
• Chính phủ: Hiến pháp chế độ quân chủ với một chính phủ nghị viện. Chính trị
bên: Dân chủ Đảng của Nhật Bản (DPJ), Xã hội Dân chủ Đảng (SDP), New nhân dân
Đảng (PNP), Tự do Dân chủ Đảng (LDP), New sạch Chính phủ Đảng (Komeito), Nhật
Bản Cộng sản Đảng (JCP), nhóm của bạn ( YP).
• Kinh tế: Theo thống kê năm 2010, GDP đạt 5,391 nghìn tỷ USD, tốc độ tăng
trưởng 3%. Tài nguyên thiên nhiên khan hiếm bao gồm cá và một vài tài nguyên
khoáng sản. Nông nghiệp chủ yếu sản xuất lúa, rau, trái cây, sữa, thịt, cá,... Công
nghiệp sản xuất các loại máy móc, thiết bị, thép, kim loại màu, dệt may, oto, hóa chất,
thiết bị điện, điện tử, đóng tàu và các loại thực phẩm chế biến.
2.1.2 Mô hình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản:
Kinh tế thị trường Nhật Bản đã tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau và trở thành
một trong những nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhiều người coi là mẫu mực cho các
nước phát triển sau noi theo.
Đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ nhất của kinh tế Nhật Bản là thời Phục Minh Trị. Đây
là thời kỳ đã thực hiện những cải cách phi thường về chính trị, kinh tế và xã hội. Trước
hết, hệ thống chính trị phi tập trung hóa được bãi bỏ để tạo ra sự thống nhất về chính trị
của đất nước.Một nhà nước tập trung được thành lập.
Về kinh tế và xã hội, sự phân chia xã hội thành các đẳng cấp cha truyền con nối bị thủ
tiêu, thay vào đó là một xã hội hướng vào thành tựu.Những người có tài và có năng lực
đều có cơ hội tiến thân trong xã hội, bất chấp nguồn gốc xuất thân của họ. Song song với
việc thủ tiêu hệ thống đẳng cấp, các quy tắc và luật lệ phong kiến hạn chế quyền tự do
kinh tế cũng được bãi bỏ, các biện pháp tích cực thúc đẩy cơ sở hạ tầng được thực hiện,
đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải, đẩy mạnh việc cải cách hệ thông tài chính- tiền tệ,
trong đó đặc biệt là cải cách hệ thông thuế, thuế hiện vật được thay bằng thuế tiền, chế độ
tiền tệ Tokagaoa được thay thế bằng một đồng tiền hợp lý và chuẩn hóa cho cả nước, việc
phát hành tiền thuộc độc quyền của Chính phủ Trung ương; Nhà nước tập trung mạnh
cho đầu tư giáo dục; Chính phủ đồng thời khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các
ngành công nghiệp hiện đại gắn liền với thực hiện tư nhân hóa các doanh nghiệp Nhà
nước; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tiếp thu tư tưởng và kỹ thuật mới nhằm hiện
đại hóa đất nước.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản phục hồi và đạt được sự tăng trưởng
“thần kỳ“.Giai đoạn này gọi là nền kinh tế thị trường có hướng dẫn. Đặc trưng cơ bản của
nền kinh tế Nhật Bản thời kỳ này là:
• Thứ nhất, Chính phủ vừa thực hiện chính sách tạo điều kiện cho tư nhân tư do
kinh doanh thuận lợi; vừa loại bỏ những yếu tố không hoàn thiện của thị trường.
• Thứ hai, Chính phủ đảm trách chi phí đầu tư cho những ngành công nghiệp hkông
có lãi nhưng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế như: xây dựng cơ sở hạ tầng, văn hóa,
giáo dục…
• Thứ ba, sự hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân trong phát triển kinh tế được thực
hiện một cách thường xuyên và chặt chẽ.
7
• Thứ tư, Chính phủ coi trọng công cụ kế hoạch hóa gián tiếp trong điều tiết, quản lý
nền kinh tế quốc dân.
Tuy vậy, thời gian gần đây người ta bắt đầu đặt vấn đề về sự can dự quá nhiều của
Chính phủ vào những lĩnh vực cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng vì tính hiệu quả giảm
sút của sự can dự này.
Các giai đoạn phát triển kinh tế:
2.1.2.1 Giai đoạn 1946 - 1950: Khôi phục kinh tế sau Chiến tranh thế giới thứ
hai:
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản là một trong những nước bại trận, sự
phát triển kinh tế thị trường Nhật Bản nổi lên mấy vấn đề cơ bản sau đây:
• Thực hiện dân chủ hóa kinh tế gắn liền với dân chủ hóa chính trị và xã hội.
• Kinh tế thị trường không có nghĩa là nền kinh tế vô Chính phủ. Vì vậy cần có sự
can thiệp, điều tiết của Nhà nước. Thời kỳ đầu tiên phát triển kinh tế thị trường, Chính
phủ Nhật Bản can thiệp trực tiếp rộng rãi và khá sâu vào nền kinh tế, nhưng sự can thiệp
đó của Nhà nước càng về sau càng giảm dần.
• Ngoài việc bồi thường tổn thất cho những nước thắng trận, Nhật Bản còn bị lệ
thuộc vào nước ngoài.
• Tình hình kinh tế:
• Kinh tế bị tàn phá nặng nề, sản xuất bị gián đoạn: 34% máy móc, 25% công trình
xây dựng, 81% tàu biển bị phá hủy, sản xuất công nghiệp năm 1946 bằng 1/4 trước chiến
tranh…
• Số người thất nghiệp năm 1946 là 13,1 triệu người.
• Tổng cầu vượt tổng cung khiến cho lạm phát tăng tốc nhanh chóng. Nạn đói tuy
được ngăn chặn song thức ăn tồi và thiếu đã gây ra nạn suy dinh dưỡng và ngộ độc ở
nhiều nơi.
• Tình hình trên buộc Nhật Bản phải nhờ “Viện trợ” của Mỹ để phục hồi kinh tế. Từ
1945- 1950, Nhật Bản vay Mỹ 14 tỷ USD và nền kinh tế phụ thuộc chặt chẽ vào Mỹ.
Cải cách:
• Cuối 1945, Tư lệnh Lực lượng Đồng minh Quân quản ra lệnh cải cách ruộng đất ở
nông thôn, tạo ra cơ sở để tăng năng suất nông nghiệp và để ổn định các vùng nông thôn.
• 1945, lệnh giải tán các zaibatsu (các tập đoàn tài phiệt) được đưa ra.
• 1947, luật chống độc quyền được ban hành. Tiếp theo là luật thủ tiêu tình trạng tập
trung quá mức sức mạnh kinh tế được ban hành bổ sung cho luật chống độc quyền.
• Chính phủ tiến hành phân phối lương thực, kiểm soát hành chính đối với giá cả,
chống nạn đầu cơ, "đông lạnh" tiền gửi ngân hàng, đổi tiền, phát hành trái phiếu chính
phủ, tập trung sức khôi phục và phát triển một số ngành ưu tiên như than, thép, phân bón,
điện lực, v.v...
• Những cải cách dân chủ hóa kinh tế này có tác dụng nâng cao vị trí của tư bản
công nghiệp, khuyến khích tinh thần kinh doanh và đầu tư.
8
2.1.2.2 Giai đoạn 1951 – 1973: Giai đoạn phát triển thần kỳ:
Đây là thời kỳ mà nền kinh tế Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng rất cao. GDP thực tế
theo giá so sánh hàng năm (năm gốc là 1965) của Nhật Bản trong thời kỳ này hầu hết đều
có tốc độ tăng lên tới hai chữ số. Chính trong thời kỳ này, kinh tế Nhật Bản đã đuổi kịp
các nền kinh tế tiên tiến của thế giới. Nếu vào năm 1950, GNP của Nhật còn nhỏ hơn của
bất cứ nước phương Tây nào và chỉ bằng vài phần trăm so với của Mỹ, thì đến năm 1960
nó đã vượt qua Canada, giữa thập niên 1960 vượt qua Anh và Pháp, năm 1968 vượt Tây
Đức. Năm 1973, GNP của Nhật Bản bằng một phần ba của Mỹ và lớn thứ hai trên thế
giới.
So sánh tốc độ tăng GNP bình quân đầu người của Nhật Bản giữa các thời kỳ:
• Tổng sản phẩm trong nước:
• Tốc độ tăng GDP những năm 1950-1960 trung bình là 8,5% đến 1960-1969 là
10,8%.
• Năm 1968, vượt qua các nước Tây Âu, đứng sau Mỹ với 183 tỷ USD.
• Năm 1973, đạt 402 tỷ USD. Nếu so với 1950 đã tăng lên 20 lần, khoảng cách so
với Mỹ chỉ còn 1/5.
Công nghiệp:
• 1950 – 1960, tốc độ tăng trưởng công nghiệp trung bình hàng năm là 15,9%, gấp 6
lần Mỹ (2,6%).
• 1961 – 1970, tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm là 13,5%.
• Đứng đầu thế giới về nhiều sản phẩm công nghiệp: sản lượng tàu biển, xe hơi, xe
máy, máy điện tử,…
Nông nghiệp:
• Phát triển theo hướng thâm canh với trình độ cơ giới hóa, hóa học hóa, thủy lợi
hóa và điện khí hóa rất cao.
• Năm 1969, tổng giá trị sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp là 9 tỷ đồng, lao động
nông nghiệp giảm xuống còn 8,9 triệu (1960, 14,5 triệu).
• 1967 – 1969: Sản lượng lương thực đủ cung cấp hơn 80% nhu cầu trong nước,
chăn nuôi 2/3 nhu cầu thịt, sữa, đánh cá sau Pêru 86 kg/người/năm.
9
Xuất khẩu: đẩy mạnh xuất khẩu hàng tiêu dùng lâu bền và chuyển sang xuất khẩu
máy móc như ô tô, thiết bị điện tử cao cấp như máy tính.
• 1970, 72,4% kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản là nhờ các sản phẩm công nghiệp
nặng và hóa chất.
• Năm 1960, Nhật Bản bắt đầu tự do hóa thương mại.
• Năm 1963, Nhật Bản trở thành thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
• Năm 1964, Nhật Bản trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế, câu lạc bộ của những quốc gia tiên tiến.
Nhật trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính của thế giới tư bản.
Là nước phụ thuộc gần như hoàn toàn vào dầu lửa nhập khẩu và nhu cầu nước ngoài
nên cuộc khủng hoảng 1973-1975 đã làm kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng đình
lạm sâu sắc. Mức độ khủng hoảng căn cứ vào tốc độ tăng trưởng GDP thực tế và sản
lượng công nghiệp của Nhật Bản nghiêm trọng nhất trong các nước công nghiệp phát
triển và nghiêm trọng hơn cả hồi Đại khủng hoảng. Những ngành công nghiệp sử dụng
nhiều năng lượng như đóng tàu, luyện thép, hóa dầu, dệt, gia công kim loại bị khủng
hoảng nặng nề.
Tác động nghiêm trọng của cú sốc dầu lửa 1973-1975 đã khiến Nhật Bản phải tích
cực triển khai chương trình tiết kiệm năng lượng, đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng của khu vực dịch vụ. Trong khu vực chế tạo, giảm tỷ trọng của
các ngành dùng nhiều năng lượng, tăng tỷ trọng của các ngành có hàm lượng tri thức cao
(như sản xuất máy tính, máy bay, người máy công nghiệp, mạch tổ hợp,...), các ngành
sản xuất theo mốt (quần áo chất lượng cao, đồ điện dân dụng, thiết bị nghe nhìn,...) và
công nghiệp thông tin. Nhật Bản nhấn mạnh hơn nữa nghiên cứu khoa học cơ bản để có
thể chuyển sang các ngành kinh tế mới.
Nguyên nhân tăng trưởng và chính sách chính phủ:
• Điều kiện quốc tế thuận lợi (Cách mạng khoa học kĩ thuật; Chiến tranh Triều Tiên,
Đông Dương…).
• Duy trì được tỷ lệ tích lũy vốn cao (khoảng 30 -35 %), chiến lược sử dụng vốn
hiệu quả: đầu tư cho khoa học kỹ thuật, các nghành kinh tế mũi nhọn, cơ sở hạ tầng,...
• Truyền thống văn hóa- giáo dục phát triển cao, được kế thừa và phát huy, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc.
• Hệ thống quản lí các công ty Nhật có sức cạnh tranh cao, tập trung vào các ngành
trọng điểm.
• Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế: lựa chọn chiến lược
phát triển, nắm bắt thời cơ…
• Nhân tố con người: Có trình độ, kỉ luật, cần cù…
• Chính sách đối ngoại: Chủ trương đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, mục tiêu lớn
nhất là đưa nước Nhật trở thành một siêu cường kinh tế. Vì vậy, Nhật Bản tiến hành
giành thị trường khắp nơi, nhất là Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
2.1.2.3 Giai đoạn 1974-1985: Không ổn định:
Thời kỳ này có đặc trưng là tốc độ tăng GDP không ổn định và nhìn chung thấp bằng
nửa thời kỳ tăng trưởng thần kì ở giai đoạn trước.
10
Tình hình kinh tế:
• Hai cuôc khủng hoảng kinh tế 1973- 1975 và 1980- 1982 làm cho kỷ nguyên tăng
trưởng nhanh chấm dứt, nền kinh tế bị suy thoái nghiêm trọng.
• Kinh tế tăng trưởng âm trong năm 1974. Trong giai đoạn 1974-1982, tốc độ tăng
sản phẩm quốc dân hàng năm chỉ 3,7%.
• Năm 1974, Nhật Bản lâm vào siêu lạm phát