Đề tài Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn

Như bất kỳ những lĩnh vực hoạt động khác của con người, hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) cũng chịu sự tác động của những quy luật khách quan nhất định. Những quy luật khách quan này là gì và tác động, ảnh hưởng chi phối của chúng như thế nào đến tổ chức hoạt động của TTHS trong lịch sử thế giới và lịch sử của mỗi quốc gia là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với các nhà lập pháp. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động TTHS không thể là công việc chủ quan duy ý chí. Chỉ khi nào mà pháp luật TTHS được xây dựng trên nền tảng nhận thức của nhà lập pháp về những quy luật khách quan và những điều kiện tác động, chi phối của nó trong TTHS thì hoạt động của TTHS mới có thể đem lại những kết quả mong đợi. Chính vì nhu cầu thực tế này của cuộc sống mà từ cuối thế kỷ XIX khoa học TTHS đã có những nghiên cứu về sự đa dạng phong phú trong cách thức tổ chức hoạt động TTHS trên thế giới nói chung và ở mỗi quốc gia nói riêng trong tiến trình phát triển lịch sử hàng nghìn năm của TTHS để tìm ra những quy luật chung, những sự khác biệt và xu hướng vận động của hoạt động TTHS. Hướng nghiên cứu này trong khoa học TTHS được gọi là nghiên cứu về kiểu, mô hình TTHS hay còn gọi là mô hình hóa TTHS. Tri thức về mô hình TTHS là nền tảng giúp chúng ta có được phương pháp luận phù hợp khi đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS của mình.

doc14 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2127 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGUYỄN THÁI PHÚC* *PGS.TS Luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh 1. Đặt vấn đề Như bất kỳ những lĩnh vực hoạt động khác của con người, hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) cũng chịu sự tác động của những quy luật khách quan nhất định. Những quy luật khách quan này là gì và tác động, ảnh hưởng chi phối của chúng như thế nào đến tổ chức hoạt động của TTHS trong lịch sử thế giới và lịch sử của mỗi quốc gia là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với các nhà lập pháp. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động TTHS không thể là công việc chủ quan duy ý chí. Chỉ khi nào mà pháp luật TTHS được xây dựng trên nền tảng nhận thức của nhà lập pháp về những quy luật khách quan và những điều kiện tác động, chi phối của nó trong TTHS thì hoạt động của TTHS mới có thể đem lại những kết quả mong đợi. Chính vì nhu cầu thực tế này của cuộc sống mà từ cuối thế kỷ XIX khoa học TTHS đã có những nghiên cứu về sự đa dạng phong phú trong cách thức tổ chức hoạt động TTHS trên thế giới nói chung và ở mỗi quốc gia nói riêng trong tiến trình phát triển lịch sử hàng nghìn năm của TTHS để tìm ra những quy luật chung, những sự khác biệt và xu hướng vận động của hoạt động TTHS. Hướng nghiên cứu này trong khoa học TTHS được gọi là nghiên cứu về kiểu, mô hình TTHS hay còn gọi là mô hình hóa TTHS. Tri thức về mô hình TTHS là nền tảng giúp chúng ta có được phương pháp luận phù hợp khi đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS của mình. 2. Khoa học TTHS Xô Viết về kiểu và mô hình TTHS Theo quan điểm của khoa học TTHS Xô Viết, TTHS cũng như các chế định pháp lý khác gắn liền với nhà nước, chịu tác động của quy luật tiến hóa, cùng vận động và phát triển với nhà nước. Tương ứng với mỗi kiểu nhà nước là mỗi kiểu TTHS nhất định. Cũng như kiểu nhà nước, kiểu TTHS là tổng hợp toàn bộ các dấu hiệu của nó đặc trưng cho một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Lịch sử phát triển tự nhiên của xã hội loài người đã biết đến 4 kiểu TTHS khác nhau, thay thế lẫn nhau: TTHS kiểu chiếm hữu nô lệ, TTHS kiểu phong kiến, TTHS kiểu tư sản, TTHS kiểu XHCN. Cách tiếp cận này cho chúng ta thấy mối quan hệ có tính phụ thuộc, bị chi phối về bản chất của TTHS trong quan hệ với chế độ xã hội nhà nước mà nó tồn tại, trong đó vai trò của TTHS như là một chế định công bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị trong nhà nước. Trong cùng một kiểu TTHS có thể có những hình thức (mô hình) TTHS khác nhau (cũng giống như trong một kiểu nhà nước có thể có nhiều hình thức nhà nước khác nhau). Các điều kiện lịch sử cùng nhiều yếu tố khác như dân tộc, văn hóa, tôn giáo, kinh tế, truyền thống pháp lý… trong từng quốc gia cụ thể đã hình thành cách thức giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu của TTHS khác nhau. Đó chính là lời giải thích sự hình thành các mô hình TTHS khác nhau ở các quốc gia có cùng một kiểu nhà nước hoặc các quốc gia có kiểu nhà nước khác nhau nhưng có thể có mô hình TTHS giống nhau. Lịch sử đã biết đến 4 mô hình TTHS tồn tại ở các kiểu TTHS trong những thời kỳ khác nhau: Mô hình TTHS buộc tội (tố cáo); Mô hình TTHS xét hỏi (inquisitio); Mô hình TTHS tranh tụng; Mô hình TTHS pha trộn (hỗn hợp). Khoa học TTHS Xô Viết phân biệt khái niệm “kiểu TTHS” với khái niệm “mô hình TTHS” hay “hình thức TTHS”. Nếu như khái niệm kiểu TTHS được xác định bởi quá trình lịch sử thống nhất thì khái niệm mô hình TTHS bị chi phối bởi nhiều yếu tố như đặc thù văn hóa, lịch sử, truyền thống pháp lý, tôn giáo… Mô hình TTHS phản ánh những tính chất, đặc điểm của hoạt động TTHS – những yếu tố có thể thay đổi trong phạm vi của một kiểu TTHS do tác động của những điều kiện lịch sử cụ thể tồn tại ở mỗi quốc gia. Mô hình TTHS lịch sử là cách thức tổ chức hoạt động TTHS và cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ thể tham gia hoạt động TTHS như thế nào và nguồn động lực của hoạt động TTHS là gì: là hoạt động tích cực của các bên tranh tụng hay là hoạt động tích cực của các cơ quan nhà nước mà trước hết là cơ quan Tòa án hay là sự kết hợp cả hai. Trường phái về mô hình TTHS của khoa học TTHS Xô Viết được thừa nhận là có những hạt nhân hợp lý, có tính logic nội tại cao, làm rõ mối quan hệ giữa hoạt động TTHS với bản chất nhà nước, với các điều kiện lịch sử cụ thể… Bên cạnh đó trường phái này cũng bị phê phán là đã không phản ánh đúng trình tự hoạt động TTHS và quá trình tiến hóa của nó. Khoa học TTHS ở Liên Bang Nga hiện nay không phân biệt các khái niệm “kiểu TTHS” và “hình thức TTHS” hay “mô hình TTHS”. Các khái niệm này được sử dụng như là đồng nghĩa với nhau. Có ba trường phái hay ba phương pháp tiếp cận về mô hình TTHS. Trường phái thứ nhất là trường phái mô hình TTHS lý thuyết. Những người theo quan điểm này đã không hoàn toàn lệ thuộc vào tiến trình lịch sử của TTHS mà ngược lại, từ chính tiến trình lịch sử đó họ đã khái quát về mặt lý thuyết, xây dựng những đặc điểm lý luận của các mô hình TTHS cụ thể. Cơ sở phân loại các mô hình TTHS là tiêu chí: có hay không có tranh chấp – xung đột pháp lý giữa các bên tranh tụng bình đẳng với nhau trước Tòa án (TA) độc lập. Có – đó là TTHS tranh tụng. Không có – đó là TTHS thẩm vấn. Nếu như tranh chấp giữa các bên chỉ có ở một số giai đoạn của TTHS thì TTHS là mô hình pha trộn. Các mô hình TTHS này gọi là mô hình TTHS lý thuyết vì chúng chỉ tồn tại trong lý luận khoa học chứ không tồn tại ở hình thức nguyên mẫu trong lịch sử của TTHS. Có ba mô hình TTHS lý thuyết là mô hình tranh tụng, mô hình xét hỏi và mô hình pha trộn. Mô hình tranh tụng có những đặc điểm sau đây: + Có hai bên tranh tụng đối trọng nhau là bên buộc tội và bên bào chữa. + Hai bên này hoàn toàn bình đẳng với nhau về địa vị tố tụng. + TA hoàn toàn độc lập đối với các bên. Mô hình tranh tụng đòi hỏi áp dụng phương pháp điều chỉnh pháp luật là phương pháp trọng tài dựa trên tự do và độc lập ý chí của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng. Phương pháp điều chỉnh này dựa trên yếu tố tự định đoạt và mệnh lệnh: thừa nhận quyền tự định đoạt của các bên và quyết định có tính bắt buộc thi hành của TA (Trọng tài). Bản thân các bên không thể tự mình tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến bên tranh tụng kia. TA chỉ giải quyết vụ án trên cơ sở yêu cầu của các bên chứ không tự ý giải quyết những gì ngoài yêu cầu của các bên. TA không thể thực hiện bất kỳ hành vi nào thuộc chức năng buộc tội hay chức năng bào chữa. TA tiến hành hoạt động của mình trên cơ sở có sự buộc tội của bên buộc tội đưa ra và chỉ giới hạn hoạt động trong phạm vi buộc tội. Điều này dẫn đến hệ quả: sự tranh tụng của các bên xung quanh sự buộc tội chính là động lực làm cho hoạt động TTHS tiến triển, vận động lên phía trước. Không có buộc tội – không có tố tụng. Đây là một trong những quy tắc quan trọng của tranh tụng trên cơ sở thừa nhận vai trò độc lập của TA. Mô hình TTHS thẩm vấn là mô hình TTHS mà trong đó các chức năng cơ bản như chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử tập trung vào một cơ quan nhà nước. Mô hình này có các dấu hiệu đặc trưng như sau: + Không có các bên độc lập vì hoạt động tích cực của các bên bị thay thế bởi hoạt động của cơ quan nhà nước trong TTHS – cơ quan tiến hành tố tụng. + Bị cáo hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng và là đối tượng xem xét của những cơ quan này. + Không có tranh chấp pháp lý của các bên, thay vào đó là ý chí của nhà nước, của pháp luật và ý chí của nhà nước là động lực của TTHS. Ở góc độ pháp lý, mô hình TTHS thẩm vấn chính là sự vận dụng phương pháp điều chỉnh mệnh lệnh hành chính vào hoạt động TTHS. Như vậy phương pháp tiếp cận này không gắn vấn đề nghiên cứu hoạt động TTHS với tiến trình lịch sử của nó, chỉ khái quát, rút tỉa những đặc trưng, thuộc tính của TTHS tồn tại trong những quốc gia khác nhau trong những khoảng thời gian khác nhau để thấy được những gì chung nhất, điển hình nhất của mỗi mô hình TTHS. Theo cách tiếp cận này thì không có vấn đề thay thế nối tiếp nhau của các mô hình TTHS. Mô hình TTHS tranh tụng và mô hình TTHS thẩm vấn là đối lập nhau và mô hình TTHS pha trộn là sự quá độ chuyển tiếp giữa chúng. Bất kỳ hoạt động TTHS nào trong thực tế cũng là mô hình TTHS pha trộn với những biến đổi theo một trong hai hướng: pha trộn thiên về thẩm vấn hoặc pha trộn thiên về tranh tụng. Phương pháp tiếp cận này có ưu điểm đã lấy vấn đề cốt lõi nhất – thuộc tính của TTHS – làm căn cứ phân loại. Đấy chính là tiêu chí nguyên tắc tổ chức hoạt động TTHS. TTHS cần được tổ chức theo cách nào? Theo cách của quan hệ hành chính hay theo cách của tố tụng TA? Nguyên tắc này xét cho cùng lại phụ thuộc vào việc thừa nhận vụ án hình sự có phải là một tranh chấp pháp lý giữa các bên bình đẳng với nhau hay không. Cách tiếp cận này có tính lôgic cao và đưa ra được hệ thống các mô hình TTHS hoàn chỉnh. Mô hình TTHS tranh tụng hay thẩm vấn được xem như là chuẩn mực khi nghiên cứu để tự đánh giá về TTHS của mỗi quốc gia cụ thể. Bên cạnh đó phương pháp tiếp cận này có một số hạn chế nhất định như không phản ánh được quy luật phát triển của TTHS, không thấy được sự thay thế nối tiếp nhau giữa các mô hình TTHS theo một trình tự lịch sử nhất định. Từ đó có thể dẫn đến kết luận sai lầm là người làm luật có thể lựa chọn theo ý thích chủ quan của mình mô hình TTHS tranh tụng hay thẩm vấn khi xây dựng pháp luật TTHS ở quốc gia mình. Phương pháp này chỉ nhìn thấy mối quan hệ giữa các yêu tố bên trong của TTHS, không nhìn thấy lý do, nguyên nhân hình thành hoặc thay thế các mô hình TTHS – tức là mối liên hệ bên ngoài giữa TTHS với các điều kiện lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội, nhà nước, dân tộc… Phương pháp này chưa cho thấy sự khác nhau giữa tranh tụng TTHS với tranh tụng TTDS. Trường phái thứ hai là trường phái mô hình TTHS quốc gia truyền thống. Mô hình TTHS quốc gia truyền thống là cách thức tổ chức hoạt động TTHS bị chi phối bởi những đặc thù văn hóa – xã hội, tôn giáo, truyền thống pháp lý… của quốc gia và của khu vực. Trường phái này tiếp cận mô hình TTHS theo đặc thù quốc gia bằng cách nghiên cứu các mô hình TTHS đã hoặc đang tồn tại thực tế ở các quốc gia nhất định. Tiêu chí phân loại các mô hình TTHS là những dấu hiệu đặc thù của TTHS trong một số quốc gia cụ thể ở một số khu vực địa lý nhất định có đặc điểm riêng về dân tộc, tôn giáo, địa lý, truyền thống pháp lý… Phương pháp tiếp cận này phủ nhận quá trình lịch sử thống nhất đối với các mô hình TTHS bởi lẽ các mô hình TTHS quốc gia phụ thuộc vào các điều kiện xã hội, văn hóa, lịch sử của các nền văn minh khác nhau. Các mô hình TTHS không chuyển tiếp, thâm nhập nhau mà tự thân tồn tại và phát triển. Phương pháp này phân biệt: + Mô hình TTHS Rôman – Đức hay còn gọi là mô hình TTHS lục địa với đặc trưng về luật thành văn điều chỉnh hoạt động TTHS (Một số tác giả phân biệt mô hình TTHS của Đức với mô hình TTHS của Pháp như là hai mô hình TTHS độc lập). + Mô hình TTHS Anh – Mỹ hay TTHS của các quốc gia theo thông luật với đặc thù là coi trọng yếu tố thực tiễn xét xử thể hiện trong các bản án của TA (án lệ). + Mô hình TTHS tập quán pháp với đặc thù hoạt động TTHS chủ yếu dựa vào tư tưởng pháp luật (ý thức pháp luật) với sự ảnh hưởng của tôn giáo thí dụ như các hệ thống TTHS của các quốc gia hồi giáo. Phương pháp này cho thấy mối quan hệ giữa các yếu tố quốc gia đặc thù với cách thức tổ chức TTHS, giữa đặc thù văn hóa – xã hội với đặc thù mô hình TTHS nhưng lại có hạn chế là không thấy được quy luật chung giữa các mô hình TTHS, không thấy được sự kế thừa giữa chúng. Trường phái thứ ba là trường phái mô hình TTHS lịch sử. Trường phái này đưa ra khái niệm về mô hình TTHS lịch sử. Đó là cách thức tổ chức hoạt động TTHS điển hình trong từng giai đoạn phát triển lịch sử của xã hội loài người và chịu sự chi phối bởi mối quan hệ giữa tự do cá nhân và nhà nước, giữa lợi ích riêng của cá nhân và lợi ích chung của nhà nước, của xã hội. Những người theo trường phái này đã khái quát toàn bộ quá trình phát triển lịch sử TTHS để chỉ ra quy luật chung và xu hướng vận động của tiến trình lịch sử đó vì họ cho rằng chỉ có một tiến trình phát triển lịch sử của TTHS, một xu thế chung trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Giống như trường phái khoa học TTHS Xô Viết trước đây, những người theo trường phái này lấy tiêu chí thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội làm cơ sở phân loại các mô hình TTHS nhưng không nhấn mạnh yếu tố bản chất giai cấp của chúng. Phương pháp tiếp cận này chú trọng nghiên cứu các quy luật khách quan thay thế các mô hình TTHS. Các mô hình TTHS đều có quy luật chung trong quá trình phát triển của mình. Trường phái này phân biệt ba mô hình TTHS lịch sử: + TTHS buộc tội sơ khai. Mô hình này hình thành ở thời kỳ nhà nước chiếm hữu nô lệ và tồn tại đến thời kỳ đầu của nhà nước phong kiến. Đặc trưng của mô hình này là địa vị tố tụng hết sức đặc biệt của người buộc tội. Thông thường người bị hại đồng thời là người buộc tội. Người buộc tội quyết định sự khởi đầu của vụ án – khởi tố vụ án hay không khởi tố – cũng như tiến trình của vụ án – đình chỉ hay không đình chỉ. Hệ thống chứng cứ được thừa nhận như là căn cứ giải quyết vụ án nhưng chịu sự ảnh hưởng nặng nề của các quan điểm tôn giáo, tập quán thời đó. Chân lý khách quan của vụ án được xác định bằng hình thức thách đấu, thử thách bằng lửa, bằng nước. Các bên tranh chấp phải tuân thủ những thủ tục và phải vượt qua những thách đấu thử thách như vậy trước sự chứng kiến của TA (trọng tài) để chứng minh lẽ phải thuộc về mình. + TTHS thẩm vấn trung cổ. Mô hình TTHS này xuất hiện trong xã hội chiếm hữu nô lệ nhưng phát triển mạnh nhất, phổ biến nhất trong xã hội phong kiến thời kỳ quân chủ – chuyên chế. Đầu tiên mô hình này tồn tại trong các luật lệ của giáo hội với hoạt động của TA dị giáo – TA xét xử những người có quan điểm khác với quan điểm chính thống của giáo hội. Về sau mô hình này được mở rộng ra xã hội dân sự thành mô hình hoạt động của TA nhà nước. Vụ án hình sự có thể được bắt đầu từ những tin đồn, mật báo. Có sự phân biệt hoạt động điều tra sơ bộ và hoạt động này không mang tính công khai đối với bị can. Các giáo chủ là người tiến hành hoạt động điều tra thu thập chứng cứ để làm rõ tin đồn về sự kiện tội phạm và chuyển vụ án ra Tòa để xét xử. Bị can luôn được suy đoán là có tội và luật lệ cho phép áp dụng tra tấn, nhục hình với bị can như là cách thức thu thập chứng cứ. Ở Đức thời kỳ đó ước tính có từ 60 đến 70 hình thức tra tấn khác nhau. Bị can hầu như bị tước đoạt khả năng bào chữa, không được thừa nhận là chủ thể tham gia hoạt động TTHS mà ngược lại, là đối tượng của hoạt động TTHS. TA có vai trò tích cực trong hoạt động tố tụng, thâu tóm vào tay mình cả ba chức năng cơ bản của TTHS: vừa buộc tội, vừa bào chữa, vừa xét xử. Hệ thống chứng cứ được xây dựng trên cơ sở những quy định chặt chẽ về cách đánh giá chứng cứ theo những chuẩn mực giá trị nhất định (đánh giá chứng cứ hình thức). Thí dụ như lời nhận tội của bị cáo là “chứng cứ vua”, lời khai của phụ nữ có giá trị chứng minh ít hơn so với lời khai của nam giới, lời khai của người giàu trung thực, đáng tin cậy hơn lời khai của người nghèo… Hệ thống chứng cứ này dù sao cũng được nhìn nhận là một sự tiến bộ vì ý chí của pháp luật cũng đã thay thế cho sự tùy tiện của thẩm phán. Mô hình TTHS này tuyệt đối hóa lợi ích nhà nước, đặt lợi ích nhà nước lên trên hết và xem thân phận của bị can như là phương tiện để đạt tới mục đích có ý nghĩa xã hội là chân lý của vụ án. Nhưng lịch sử đã cho thấy chính sự chà đạp lên quyền con người của bị can lại là yếu tố cản trở việc thực hiện mục đích đó và là nguyên nhân phổ biến của những sai lầm tư pháp. + Mô hình TTHS tranh tụng. Mô hình này phổ biến ở những quốc gia có truyền thống thông luật. Nó ra đời đầu tiên ở Anh, sau đó được phổ biến ở các nước vốn là thuộc địa của Anh. Mô hình này thừa nhận hoạt động TTHS là quá trình giải quyết tranh chấp pháp lý giữa một bên là đại diện nhà nước và một bên là công dân bị cáo buộc là đã thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trước một TA – trọng tài vô tư. Đoàn bồi thẩm – đại diện cho dân chúng cũng tham gia vào việc xét xử. Trong cuộc đấu pháp lý này, hai bên tranh chấp đều có những khả năng pháp lý như nhau để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Tranh tụng giữa hai bên bắt đầu ngay từ giai đoạn trước xét xử. TA đánh giá chứng cứ theo nguyên tắc tự do, theo niềm tin nội tâm của mình. So sánh hai mô hình TTHS này – theo tài liệu của Law Society of Upper Canada[1] – thì hai mô hình này đều có những bước tố tụng giống nhau (điều tra, truy tố chuyển sang tòa án để xét xử và mở phiên tòa xét xử), đều hướng đến việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án nhưng cách thức tìm sự thật khách quan đó lại rất khác nhau. Khác nhau về cách thức tiến hành từng bước, về vai trò của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng, về sự kết nối giữa các bước với nhau. Thí dụ như mô hình TTHS thẩm vấn coi trọng bước điều tra. Viện công tố tham gia tích cực trong bước này, là người chỉ đạo và giám sát hoạt động điều tra của cảnh sát. Kết quả điều tra được lưu giữ và phản ánh trong hồ sơ vụ án. Viện công tố là người quyết định truy tố ra trước tòa để xét xử. Trong khi đó trong mô hình TTHS tranh tụng thì vai trò của Viện công tố rất mờ nhạt vì không có trách nhiệm trong hoạt động điều tra. Toàn bộ hoạt động điều tra do cảnh sát tiến hành. Kết quả điều tra được tổng hợp bằng nhiều phương thức khác nhau và không có hồ sơ chính thức của vụ án và không được chuyển trước cho thẩm phán trước khi mở phiên tòa xét xử. Làm như vậy là không hợp lệ. Một điểm khác biệt nữa là TA trong mô hình TTHS thẩm vấn có vai trò tích cực, trực tiếp thẩm vấn và đóng vai trò chính trong thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Còn TA trong mô hình TTHS tranh tụng có vai trò thụ động, rất ít khi hoặc không tham gia thẩm vấn mà chỉ là người điều khiển phần thẩm vấn cũng như phần tranh luận của các bên. Do TA không biết trước hồ sơ vụ án nên sự tranh tụng giữa hai bên là nội dung chủ yếu của phiên tòa và nhiệm vụ của các bên trong quá trình tranh tụng là thuyết phục TA chấp nhận yêu cầu của mình. Trên thế giới có 48% quốc gia, vùng lãnh thổ áp dụng mô hình thẩm vấn trong khi mô hình tranh tụng chỉ chiếm 19%[2]. Ba mô hình TTHS này thay thế lẫn nhau như tất yếu lịch sử. Vậy thì yếu tố nào quyết định sự thay thế các mô hình TTHS này? Sự phát triển của pháp luật nói chung và của TTHS nói riêng phụ thuộc vào mối quan hệ giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích nhà nước. Mối quan hệ này thể hiện mâu thuẫn cơ bản giữa cá nhân và tập thể trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mức độ tự do của con người là một tiêu chí cơ bản phản ánh sự phát triển của pháp luật nói chung và của pháp luật TTHS nói riêng. Tự do cá nhân được phản ánh trong địa vị tố tụng của các chủ thể tham gia TTHS. Mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động TTHS. Đây là căn cứ phân loại của trường phái mô hình TTHS lịch sử. Nền tảng tiến hóa các mô hình TTHS trong lịch sử chính là sự phát triển của tự do cá nhân. Mức độ quan hệ giữa tự do cá nhân và lợi ích của nhà nước khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử và tương ứng với từng thời kỳ lịch sử đó là các mô hình TTHS khác nhau. Toàn bộ lịch sử phát triển của TTHS phân chia thành ba giai đoạn cơ bản: + Giai đoạn mà lợi ích nhà nước nhượng bộ trước lợi ích cá nhân. Tương ứng là mô hình TTHS tư – tranh tụng (TTHS buộc tội sơ khai). + Giai đoạn mà lợi ích nhà nước bao trùm toàn bộ lợi ích cá nhân, bao trùm cá nhân. TTHS là hoạt động không có lợi ích cá nhân. Tương ứng là mô hình TTHS thẩm vấn trung cổ (inquisitio). + Giai đoạn bảo đảm quyền và sự tham gia của cá nhân trong TTHS với sự thừa nhận lợi ích nhà nước là yếu tố tiên quyết trong TTHS. Tương ứng là mô hình TTHS công – tranh tụng. Như vậy mô hình TTHS lịch sử được xác định bởi quan hệ giữa tự do cá nhân và nhà nước, giữa lợi ích tư và lợi ích công. Nếu tổ chức hoạt động TTHS nghiêng về lợi ích tư thì đó là mô hình TTHS tư – tranh tụng. Nếu nghiêng về lợi ích công: mô hình TTHS thẩm vấn. Nếu có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích tư và lợi ích công: mô hình TTHS công – tranh tụng. Ưu điểm của phương pháp tiếp cận này thể hiện ở chỗ: bất kỳ mô hình TTHS lịch sử nào cũ