Triết học cổ điển Đức được biết đến như là sự kết thúc vinh quang cuả nền triết học tư sản cổ điển và toàn bộ truyền thống cổ điển trong triết học phương tây. Hơn nữa, nó còn là “giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại” .
Có thể nói sự ra đời của triết học cổ điển Đức gắn liền với tiền đề thực tiễn xã hội là sự lạc hậu của nước Đức nửa sau thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX và nước Đức được nhìn nhận như một mắt xích của hệ thống phát triển tư bản chủ nghĩa, nghĩa là nhìn nhận trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, để thấy được đâu là đặc trưng riêng, đâu là tính phổ biến, biểu hiện trong các học thuyết Đức.
23 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1994 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa gia đình – xã hội công dân – nhà nước trong triết học pháp quyền của hegel, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH
BÀI GIỮA KỲ TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN
Đề tài: MỐI QUAN HỆ GIỮA GIA ĐÌNH – XÃ HỘI CÔNG DÂN – NHÀ NƯỚC TRONG TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN CỦA HEGEL
SVTH: LÊ THỊ NGỌC ANH
MSSV: 1256070040
GVHD: TS. NGÔ THỊ MỸ DUNG
TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 4 năm 2014
Danh Mục
I.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN HEGEL
1. Hegel(1770 – 1831) – Một trong những biểu tượng của tinh thần Đức...................................................................................................
2. Triết học pháp quyền Hegel – Triết học tinh thần khách quan.................................................................................................
3. Mục đích của triết học pháp quyền Hegel..............
4. Cấu trúc “Các nguyên lý của triết học pháp quyền” Hegel......
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA GIA ĐÌNH – XÃ HỘI CÔNG DÂN VÀ NHÀ NƯỚC TRONG TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN HEGEL
Gia đình..............................
Xã hội công dân
Nhà nước
III. KẾT LUẬN........................
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN HEGEL
Triết học cổ điển Đức được biết đến như là sự kết thúc vinh quang cuả nền triết học tư sản cổ điển và toàn bộ truyền thống cổ điển trong triết học phương tây. Hơn nữa, nó còn là “giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại” Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học, Nxb Chính Trị Quốc Gia Hà Nội – 1998, tr.371
.
Có thể nói sự ra đời của triết học cổ điển Đức gắn liền với tiền đề thực tiễn xã hội là sự lạc hậu của nước Đức nửa sau thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX và nước Đức được nhìn nhận như một mắt xích của hệ thống phát triển tư bản chủ nghĩa, nghĩa là nhìn nhận trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, để thấy được đâu là đặc trưng riêng, đâu là tính phổ biến, biểu hiện trong các học thuyết Đức.
Hegel (1770 -1831) – Một trong những biểu tượng của tinh thần Đức
Khi tìm hiểu về triết học cổ điển Đức người ta thường nhớ đến Immanuel Kant (1724 – 1804) vừa người sáng lập triết học cổ điển Đức, cũng đồng thời là người cùng với Lessing xác lập phương pháp tư duy mới trong văn hóa châu Âu. “Danh tiến của ông đã đẩy lùi những gì đi trước vào bóng tối và tỏa sáng lên trên những gì đi sau” vi.wikipedia.org/wiki/Immanuel_Kant
như nhận xét của triết sử gia J. Hirschberger. Một Fichte (1762 – 1814) với quan điểm triết học cơ bản thông qua hệ thống “Học thuyết khoa học” (Wissenschaftslehre), tập hợp các tác phẩm thể hiện quan điểm triết học mang tính cải cách của ông. Một “chủ nghĩa duy vật nhân bản” lấy con người làm nền tảng, đối tượng nghiên cứu chủ yếu làm nên tên tuổi L. Feuerbach (1804 – 1872). Và cuối cùng không thể không nhắc đến một trong những biểu tượng của tinh thần Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX – G.V.F. Hegel (1770 – 1831) là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của triết học Mácxít. Theo nhận xét của Ph.Ăngghen, ông “không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại” C.Mac và Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr.397.
.
Hegel là người đã đem đến cách hiểu mới về phép biện chứng, vượt qua cách hiểu mang nặng tính chủ quan về biện chứng như “nghệ thuật đối thoại”. Phương pháp biện chứng được thể hiện ngay từ công trình triết học lớn đầu tiên - “Hiện tượng học tinh thần” (1806) và xuyên suốt cuộc đời của ông, có lẽ đây cũng là tác phẩm lớn nhất mang lại tiếng tăm lẫy lừng cho Hegel. Song nội dung cơ bản nhất tập trung trong Lôgic học hay Khoa học logic.
Do vậy, một đặc điểm nổi bật của khoa học triết học Hegel là sự kết hợp của ba thành tố: logic học, khoa học tự nhiên, triết học tinh thần. Bên cạnh đó, Hegel còn được biết đến bởi tư tưởng của ông về “Triết học pháp quyền” khi nó mặc nhiên trở thành tên gọi ngắn gọn và quen thuộc dành cho tác phẩm lừng danh mang đến hai nhan đề: “Các nguyên lý của triết học pháp quyền” (Grundlinien der Philosophie dé Rechts) và “Đại cương pháp quyền tự nhiên và khoa học về Nhà nước” (Naturrecht und Staatswissenschaft im Grundrisse) của Hegel sau khi tác giả của nó qua đời” Heghel: GPR (Các nguyên lý của triết học pháp quyền), tr124, Giảng thêm.
được xuất bản lần đầu năm 1821 tại Berlin.
Triết học pháp quyền Hegel - Triết học tinh thần khách quan
Trong triết học thế kỷ XVII – XVIII tính khái niệm “lý trí” hầu như không được đề cập đến, các nhà triết học chỉ đơn giản trưng dẫn nó ra để đối lập với cái phi lý, thay sự thông trị của uy quyền bằng sự thống trị của lý trí. Việc phân tích “cơ chế” vận động của lý trí, do đó trở thành nhiệm vụ tất yếu của Kant, Fichte, Hegel. Sự phân tích đòi hỏi phải “khách quan hóa” khái niệm, xem xét nó từ phía khác, chứ không chỉ như cái chủ quan, cố hữu nơi con người. Hệ thống Hegel là một ví dụ. Khoa học logic của ông được cắt nghĩa là “tư duy về tư duy”; ở vế thứ nhất tư duy là năng lực chủ quan của con người, vế thứ hai tư duy đã là đối tượng, là cái khách quan bên ngoài, là cái đã được khách quan hóa, tạm tách ra khỏi chủ thể. Vì vậy triết học của Hegel là hệ thống “chủ nghĩa duy tâm khách quan”. Vậy thực chất của “chủ nghĩa duy tâm khách” Hegel là gì? Nếu trả lời đúng câu hỏi này thì sẽ giải thích đúng bản chất thực sự của triết học Hegel, trả lại cho nó ý nghĩa nhiêm túc vốn có.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hegel thể hiện trên quan điểm: Theo ông, thực tại là một quá trình logic phát triển theo quy luật về sự phù hợp giữa các mặt đối lập. Quá trình này có ba giai đoạn cơ bản: Ý niệm (Logos), Tự nhiên, Tinh thần. Ba giai đoạn chỉ sự kế tiếp về mặt logic chứ không phải là về mặt trình tự thời gian, bởi vì toàn bộ quá trình được thực hiện hóa bởi ý niệm ban đầu, trong đó mọi cái đều đã có sẵn.
Điều đó cũng dễ lý giải vì sao triết học pháp quyền của Hegel thuộc về lĩnh vực tinh thần khách quan (trong ba thành tố cấu thành hệ thống triết học của ông: logic học, triết học tự nhiên, triết học tinh thần). Khác với triết học pháp quyền của Kant, Hegel cho rằng nhiệm vụ của triết học pháp quyền là nhận thức và diễn tả cái hợp lý ở trong bản thân nhà nước và pháp luật, chứ không phải chỉ ra chúng cần phải như thế nào. Trong Phác thảo về triết học háp quyền Hegel viết “Nhiệm vụ cơ bản của triết học pháp quyền là nhận thức nhà nước và pháp luật, chứ không phải là chỉ ra chúng phải như thế nào. Triết học không thể vượt qua khuôn khổ của thời đại mình, nhiệm vụ cơ bản của nó là đạt tới tính hợp lý của cái hiện tồn chứ không phải là tìm kiếm lý luận mới về nhà nước và pháp luật. Bởi vì tác phẩm bao hàm khoa học về nhà nước và pháp luật nên nó sẽ là ý định nhận thức và mô tả một cái hợp lý trong bản thân mình. Với tư cách là một tác phẩm triết học nó cần hải đi xa hơn việc kiến tạo nhà nước như là nhà nước cần phải trở nên như vậy” G. W. F. Hêgel, Phát thảo về triết học phá quyền. Lời nói đầu (Grundlinien der philosophie des Rechts Vorede) Frankfurt am Main, 1979, tr.21
Mục đích của triết học pháp quyền Hegel.
Bởi Hegel là một nhà “Bách khoa” nên những phát biểu của ông được người ta biểu dương mang tính thần. Hơn nữa, trong hệ thống triết học của ông nói chung và tư tưởng về triết học pháp quyền nói riêng mọi sự phân tích đều quy về logic.
Triết học pháp quyền là triết học về luật, về quyền con người trong việc ban hành luật, đi tìm một nhà nước như thế nào là “hợp lý tính” và đem lại giá trị bảo đảm thực thi công lý trong những quyền mà pháp luật đề cập đến. Trong đó, “tự do” được thể hiện như thế nào là vấn đề mà nhiều nhà triết học bấy giờ quan tâm.
Kế thừa tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp, đặc biệt là triết học pháp quyền của Kant. Hegel cũng lấy tự do ý chí làm xuất phát cho triết học pháp quyền của mình. Nhưng nếu như Kant với ý chí tự do ông đi đến kết luận khi đã là con người thì được tự do và được thể hiện quyền làm người của mỗi chúng ta là “tự do”. Cũng xuất phát và lấy tự do ý chí làm đối tượng nghiên cứu triết học pháp quyền của mình nhưng mục đích triết học pháp quyền Hegel là muốn chứng minh một nhà nước mà trong đó sự “tự do” được đảm bảo. Theo Hegel nhà nước đó là nhà nước Phổ. Chính vì vậy, Hegel kêu gọi mọi người đã là một công dân nhà nước thì chưa đủ, muốn có sự tự do thực sự thì phải phấn đấu trở thành thành viên của nhà nước.
Hegel muốn chứng minh tự do có hiện thực được không trong nhà nước Phổ. Trả lời cho các câu hỏi thế nào là tự do và con đường tự do từ ý niệm trở thành hiện thực như thế nào. Tuy con đường đi là khác nhau nhưng đối với Marx, Kant…Hegel thì mục đích cuối cùng trong triết học pháp quyền của họ là hướng đến tự do cho con người.
Theo Hegel, tự do ý chí là sự thống nhất giữa tư duy và ý chí. Hegel phân tích tự do ý chí có ba giai đoạn:
Thứ nhất, là ý chí tự nhiên (der naturliche Wille) hay là ý chí trực tiếp - Tự do tự mình.
Thứ hai, là ý chí tùy tiện – tự do cho nó, được thể hiện qua sự tự do lựa chọn trong những hoàn cảnh “cụ thể tôi có thể làm nếu tôi muốn” Sđđ, 11, tr.57
. Theo Hegel, đây là tự do về mặt hình thức chứ không phải nội dung.
Cuối cùng, là ý chí hợp lý – ý chí đích thực tự do. “Với Hegel, tự do đích thực là tự do tồn tại tự nó và cho nó. Đấy là ý chí tự do có nội dung của mình là bản thân mình.” Triết học pháp quyền Tây Âu, TS. Ngô Thị Mỹ Dung, ĐH Khxh & Nv TP. Hồ Chí Minh, 2004, tr.58
. Ý chí tự do là trí tuệ biết tư duy, là năng lực quyết định một cách hiểu biết công việc chứ không phải là tự do tự nhiên hay tự do tùy tiện.
Cấu trúc của “Các nguyên lý của triết học pháp quyền” Hegel
Khác với các nhà khai sáng của Pháp và Đức tự do trong triết học pháp quyền của họ đề cập chưa phải là tự do đích thực mà chỉ là tự do hình thức, chỉ mới là tự do bề ngoài mang tính khách quan. Do vậy, đối với ông tự do đích thực của con người là kết quả của quá trình hiện thực lâu dài khái niệm tự do trong hiện thực (tức tự do từ khái niệm của ý niệm đến tự do cụ thể của hiện thực). Quá trình đó trong tác phẩm “Các nguyên lý của triết học pháp quyền” của Hegel (do Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải) được thể hiện qua ba phần cụ thể. Tự do trước tiên trong lĩnh vực pháp quyền trừu tượng hay pháp luật hình thức, sau đó là luân lý và đời sống đạo đức.
Phần I của tác phẩm, pháp quyền trừu tượng (pháp luật hình thức), tự do được thể hiện là tự do bên ngoài, tự do mang tính hình thức. Ở đây, Hegel đã thể hiện ý chí tự do trên hai phương diện chủ thể và khách thể.
“Trong lĩnh vực này, phương diện chủ thể của ý chí tự do là nhân thân (Person), tức là con người theo nghĩa hoàn toàn trừu tượng với thuộc tính duy nhất là chủ nhân của những quyền hạn và nghĩa vụ pháp lý trừu tượng”.Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Nxb Tri Thức, 2010, tr.33
Ở phương diện khách thể của ý chí tự do đề cập đến “luận điểm về sự tự triển khai tất yếu của các hình thức và định chế pháp lý “thuần túy” như sở hữu và hợp đồng; sự quá độ tất yếu về mặt khái niệm từ các mối quan hệ hợp đồng sang sự phi pháp hay sai trái (sự phi pháp ngay tình, sự lừa đảo, sự cưỡng bách và tội ác), cũng như quan niệm và học thuyết về hình phạt như Là sự phủ định của phủ định (phủ định bằng pháp luật đối với sự vi phạm pháp quyền hau là việc khôi phục pháp quyền, công lý” Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Nxb Tri Thức, 2010, tr.33,34
.
Điều đáng chú ý ở đây là Hegel coi trọng tính sở hữu của con người. Hegel cho rằng thông qua sở hữu của cá nhân chứng tỏ người đó có nhân cách. Rằng luật định phải đảm bảo cho quyền tự do đó – đó chính là quyền được sở hữu, một trong những quyền tự nhiên của con người. Khi đó sở hữu được đồng nhất như là nhân cách của con người. “Sở hữu là điều kiện cần thiết, biểu thị sự tồn tại hiện có bên ngoài của ý chí tự do, vì vậy mỗi cá nhân, với tư cách là thực thể có ý chí tự do để biểu thị người có lý tính, và pháp luật hiện hành có nhiệm vụ bảo vệ quyền sở hữu của các cá nhân. Các cá nhân có quyền tự do tiến hành thỏa thuận sở hữu của mình trên nguyên tắc: “Hãy là một nhân cách và tôn trọng những người khác như là những nhân cách”.” Ngô Thị Mỹ Dung, Triết học pháp quyền Tây Âu, Đh Khxh & Nv TP. Hồ Chí Minh, 2004, tr.59
Phần II, Hegel nói về “Luân lý” nhưng không phải theo nghĩa thông thường và quen thuộc của những quy phạm luân lý. Hegel hiểu chữ “luân lý” theo nghĩa khác. Theo ông, đó là quá trình “nhân thân trừu tượng (của cấp độ pháp quyền trừu tượng) phát triển thành chủ thể. Như thế, luân lý nơi Hegel chính là yếu tố chủ quan của việc quy định ý chí và là “pháp quyền” của ý chí chủ quan”. “Trong chừng mực đó, luân lý như là một hình thái của pháp quyền nói chung, là một hiện tượng của Tinh thần khách quan, giống như các hiện tượng khác, nghĩa là, có thể mô tả được bằng lý thuyết, và, do đó, về cơ bản, chứa đựng một lý thuyết về hành động dưới các tiểu mục “Chủ ý và trách nhiệm”, “Ý định và sự an lạc”, “Cái thiện và lương tâm” Bùi Văn Nam Sơn, Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Nxb Tri thức, 2010, tr.34
.
Những cái mà Hegel cho là luân lý ấy được đặt trong một nền đạo đức học định chế - theo đó sự đúng đắn và bổn phận ràng buộc do chính bản thân cấu trúc của các định chế mang lại mà suy cho cùng là định chế nhà nước, Hegel tiền giả định rằng các định chế đó là những “quyền lực đạo đức”, trong đó có sự hài hòa giữa đời sống cộng đồng (Aristoteles) và tính chủ thể tự do (Kant). Trong phần luân lý tự do ý chí được Hegel thể hiện “con người không phải làm gì khác hơn ngoài những gì đã được quy định, đã được ban bố” (§ 150). Có thể nói tự do trong trường hợp này là con người chỉ được phép làm những gì mà pháp luật không cấm.
Chính vì quan điểm bất đồng với các nhà khai sáng Pháp khi Hegel cho rằng sự thể hiện của ý chí tự do thông qua quyền sở hữu, khế ước và hành vi đạo đức của cá nhân chưa phải là tự do đích thực “tự nó và cho nó”. Đến với phần III, Hegel cho rằng, chỉ trong lĩnh vực của đời sống luân lý – đời sống đạo đức thì tự do đích thực mới được thể hiện. Nó là một “bước chuyển” từ luân lý sang đời sống đạo đức (Sittlichkeit) như trước đây từ pháp quyền trừu tượng sang luân lý.
Đời sống đạo đức được thể hiện ở ba cấp độ gia đình, xã hội công dân và nhà nước. Tuy là đời sống đạo đức (đời sống luân lý) là tổng hòa của tự do bên trong và bên ngoài (khách quan và chủ quan) nhưng tự do lại được thể hiện theo từng mức độ khác nhau ở các cấp độ.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA GIA ĐÌNH, XÃ HỘI CÔNG DÂN VÀ NHÀ NƯỚC TRONG TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN CỦA HEGEL.
Để xây dựng một nhà nước pháp quyền theo Hegel nó phải trải qua một quá trình, một logic nhất định. Đó là khi ta đặt nó trong mối quan hệ giữa gia đình, xã hội công dân và nhà nước. Có thể nói nhà nước là cấp độ cao nhất của việc hiện thực hóa pháp quyền từ một nhà nước pháp quyền trong ý niệm, trải qua cái chung trừu tượng đến cái cụ thể, hiện thực hóa khái niệm đó. Chính vì vậy nhà nước theo cách hiểu của Hegel không chỉ đơn thuần là các cơ quan hành pháp mà là tổng thể các quy chế, đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa,.. của xã hội, nhờ đó mà mỗi quốc gia mới có thể phát triển bình thường . Ta nhận thấy rõ điểm tiến bộ của Hegel khi ông cho rằng mọi hoạt động của nhà nước phải gắn liền với lĩnh vực đạo đức, nói cách khác nhà nước là hiện thực hóa của ý niệm đạo đức. (Phần III – Đời sống đạo đức).
Gia đình.
Gia đình được xem là “gốc rễ đạo đức đầu tiên của nhà nước”, là một chỉnh thể có tính bản chất, trong đó các thành viên có liên hệ vói nhau về mặt tình cảm, mà không phải cạnh tranh nhau, liên kết với nhau bằng một hợp đồng nào đó.
“Gia đình, như là tính bản thể trực tiếp của Tinh thần, có sự quy định của nó trong cảm nhận của tinh thần về sự thống nhất của chính mình, đó là tình yêu [thương]. Tâm thế [phù hợp với gia đình, do đó, là có Tự - ý thức về tính cá nhân của mình bên trong sự thông nhất này như là tính bản chất tự - mình và cho – mình, khiến con người hiện diện trong gia đình không phải như là một nhân thân độc lập mà như là một thành viên”. Bùi Văn Nam Sơn, Các nguyên lý triết học pháp quyền W. G. F. Hegel, Nxb Tri thức, 2010, tr.495
(§ 158)
“Tình yêu” như là khái niệm trung tâm của gia đình. Hegel xem nguyên tắc của việc xã hội hóa ở cấp độ gia đình là nguyên tắc của “tính bản thể trực tiếp của Tinh thần” (§ 158). Tình yêu và “tính bản thể trực tiếp có mối quan hệ với nhau. Theo đó, tình yêu là “sự thống nhất của tinh thần tự cảm nhận”, đó còn là sự thống nhất về mặt ý thức của mỗi người với người khác, khiến cho cá nhân không bị cô lập “như một nhân thân độc lập” mà như một thành viên trong gia đình. Nhưng, tình yêu [thương] là một sự cảm nhận, có nghĩa là đời sống đạo đức trong hình thức tự nhiên của nó, do vậy, gia đình là khâu trung gian giữa Tự nhiên và Tinh thần.
Chính bởi gia đình xuất hiện khi có sự thống nhất giữa hai chủ thể khác nhau – hôn nhân, Hegel cho rằng nguồn gốc khách quan của hôn nhân không phải là do “sự tiên liệu và sắp đặt của cha mẹ...” mà “nguồn gốc khách quan lại là sự đồng thuận tự do của các nhân thân có liên quan, và nhất là, sự đồng thuận của họ để tạo nên một nhân thân duy nhất và từ bỏ tính nhân thân tự nhiên và riêng lẻ của họ bên trong sự hợp nhất này”. (§ 162). Do đó, đối với Hegel chỉ có một lựa chon duy nhất là hôn nhân phải dựa trên ý chí tự do của các bên liên quan (nam – nữ), ông muốn nhấn mạnh hôn nhân phải dựa trên cơ sở “tự nguyện” chứ không phải hôn nhân do sự sắp xếp, áp đặt của cha mẹ. Đây là một quan niệm thực sự tiến bộ, mới mẻ của Hegel, nếu ta không quên thời điểm ra đời của quyển sách – nửa đầu thế kỷ XIX.
Nếu như Kant hôn nhân được xem xét như một “hợp đồng” của pháp quyền trừu tượng thì Hegel lại kịch liệt phản đối quan niệm này. Bởi theo ông “trong hợp đồng, hai nhân thân chỉ nhất trí với nhau chỉ về một vật, trong khi hôn nhân là sự kết hợp giữa hai nhân thân thành một nhân thân duy nhất, với nội hàm tư biện rằng ở đây, việc hiến dâng (tự - xuất nhượng) của nhân thân đồng thời là sự đón nhận đúng thật, còn sự tự hạn chế của nhân thân lại chính là sự giải phóng hiện thực” Bùi Văn Nam Sơn, Các nguyên lý của triết học pháp quyền G. W. F. Hegel, Nxb Tri thức, 2010, tr.534
. Trong hôn nhân những bên liên quan thống nhất thành một nhân thân duy nhất do vậy “tự do” sẽ bị hạn chế nhưng lý luận của Hegel cho rằng khi “họ đạt được sự Tự - Ý thức bản thể của họ trong đó, nên trong thực tế, đó là sự giải phóng của họ”.( §162).
Ý chí tự do còn được thể hiện trong việc gáo dục con cái. Những đứa con là là hiện thân “tình yêu”, là sự thống nhất bản thể một cách khách quan của cha mẹ. “Họ thấy cái toàn bộ của sự thống nhất của họ trước mặt mình...trong đứa con, họ thấy tình yêu của họ trước mặt họ" Bùi Văn Nam Sơn, Các nguyên lý của triết học pháp quyền G. W. F. Hegel, Nxb Tri thức, 2010, Giảng thêm, §173, tr.514
. “Con cái có quyền được nuôi dưỡng và giáo dục từ nguồn lực của gia đình... quyền của cha mẹ đối với ý chí tùy tiện của con cái được quy định bởi mục đích giáo dục chúng và bắt chúng tuân theo kỷ luật”( §174). Cha mẹ có quyền nuôi dưỡng và giáo dục con cái, hơn nữa bắt chúng tuân thủ theo kỷ luật của gia đình, họ được phép trùng phạt con cái nhưng mục đích của việc sự trừng phạt này không phải là luân lý xét theo nghĩa là công lý, mà chỉ có tính chất chủ quan và luân lý, nhằm “bẻ gãy ý chí tùy tiện của con cái, xóa bỏ cái gì đơn thuần cảm tính và tự nhiên” (Giảng thêm, §174, tr.515) của con cái.
Trong khi đó, trẻ em (con cái) tự do được hiểu theo nghĩa “tự mình” tuy được giáo dục, nuôi dưỡng trong khuôn khổ gia đình, đời sống của chúng đơn thuần là sự tồn tại - hiện có (Dasein) trực tiếp của tự do tự mình nên chúng “không thuộc về cha mẹ hay những người khác như những đồ vật” (§175). Nói như Rousseu “Chúng sinh ra vốn là người, và là người tự do. Tự do thuộc về chúng không ai có quyền hưởng tự do hơn chúng. Trước khi chúng trưởng thành, người cha có thể nhân danh chúng mà bố trí điều kiện sinh tồn, mưu hạn phúc cho chúng, chứ không thể đem con mà cho không, cho hẳn đi” Jean – Jacques Rousseu, B