Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đến nay nước ta đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng vào loại nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới, được đánh giá cao về thành tích xoá đói giảm nghèo và phát triển con người, sắp bước sang ngưỡng của nước có thu nhập trung bình. Để đạt được những thành tựu to lớn đó, Việt Nam đã không ngừng đổi mới thể chế kinh tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc nước ta gia nhập WTO đã tạo ra cơ hội mới, đồng thời cũng đứng trước những thách thức không nhỏ. Cơ hội mới khi gia nhập WTO do việc cải cách thể chế, tạo lập môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, thu hút vốn đầu tư quốc tế
Để có sự thay đổi bộ mặt của đất nước như ngày nay, không thể thiếu vai trò quan trọng của hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư có tác động tới toàn bộ nền kinh tế, nó tạo đà cho kinh tế phát triển nhưng đầu tư như thế nào là hợp lí, như thế nào là hiệu qủa lại là một điều khó.
73 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2472 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đến nay nước ta đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng vào loại nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới, được đánh giá cao về thành tích xoá đói giảm nghèo và phát triển con người, sắp bước sang ngưỡng của nước có thu nhập trung bình. Để đạt được những thành tựu to lớn đó, Việt Nam đã không ngừng đổi mới thể chế kinh tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc nước ta gia nhập WTO đã tạo ra cơ hội mới, đồng thời cũng đứng trước những thách thức không nhỏ. Cơ hội mới khi gia nhập WTO do việc cải cách thể chế, tạo lập môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, thu hút vốn đầu tư quốc tế…
Để có sự thay đổi bộ mặt của đất nước như ngày nay, không thể thiếu vai trò quan trọng của hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư có tác động tới toàn bộ nền kinh tế, nó tạo đà cho kinh tế phát triển nhưng đầu tư như thế nào là hợp lí, như thế nào là hiệu qủa lại là một điều khó.
Trước sự tác động tiêu cực của kinh tế thế giới cùng với những khó khăn nội tại của nền kinh tế nước ta, cần phải hiểu rõ nguyên nhân gây ra những tác động tiêu cực ấy. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn vừa qua gặp rất nhiều khó khăn. Có ý kiến cho rằng một trong những nguyên nhân là do việc quản lí đầu tư chưa tốt đã gây ra tình trạng lạm phát cao gây nguy hại cho nền kinh tế. Do đó nhóm sinh viên chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu : “Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và lạm phát”.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức của các thành viên trong nhóm là có hạn nên bài nghiên cứu của chúng tôi còn có những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đọc và các thầy cô giáo hướng dẫn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn PGS-TS Từ Quang Phương và TS Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ nhóm hoàn thành đề tài này..
Các thành viên của nhóm 10: Lê Thị Thu Hằng
Phan Thị Thùy Linh
Đỗ Thùy Trang
Mai Thị Thu Hiền
Phạm Thị Minh Trang
Lớp chuyên ngành: Kinh tế đầu tư 49B
Chương I: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa đầu tư và lạm phát
A- Tổng quan về đầu tư và lạm phát
I- Đầu tư
1. Khái niệm
Tùy theo đối tượng, mục đích nghiên cứu,phạm vi nghiên cứu mà có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư.Tuy nhiên có thể nói đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt các kết quả đó. Như vậy mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Theo Luật Đầu tư 2005 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 7 năm 2006 thì: Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tóm lại Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào các hoạt động nào đó nhằm đem lại lợi ích hoặc mục tiêu, mục đích của chủ đầu tư.
2.Phân loại đầu tư
Có nhiều cách để phân loại hoạt động đầu tư tùy theo các tiêu chí khác nhau như phân loại theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư,theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia hay phân loại theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư…
Theo mục đích của bài viết chúng ta chia hoạt động đầu tư thành 3 loại: Hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động đầu tư thương mại và hoạt động đầu tư phát triển.
2.1. Hoạt động đầu tư tài chính
Khái niệm
Đầu tư tài chính là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc hưởng lãi suất tùy vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty).
Đặc điểm của đầu tư tài chính
-Là loại hình đầu tư không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức,cá nhân đầu tư.
-Vốn đầu tư bỏ ra được lưu chuyển dễ dàng,khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu,cổ phiếu cho người khác)
Chú ý
Trong quan hệ đầu tư tài chính có một đối tượng không tham gia vào đầu tư nhưng rất quan trọng.Đối tượng này đảm bảo cho quan hệ đầu tư được thực hiện một cách công bằng và buộc các bên tham gia đầu tư phải tuân thủ đúng quy định và luật pháp,đó là Nhà nước.
2.2. Hoạt động đầu tư thương mại
Khái niệm
Đầu tư thương mại là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và bán. Đây còn có thể coi là hình thức thương lượng trong mua bán nhằm đạt được lãi suất thương mại.
Đặc điểm của đầu tư thương mại
- Không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến vấn đề ngoại thương).
-Làm tăng tài sản của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và giữa người đầu tư với người mua.
2.3. Hoạt động đầu tư phát triển
Khái niệm
Đầu tư phát triển là hoạt động chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng,thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức,kĩ năng…) gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đặc điểm của đầu tư phát triển
-Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
-Thời kì đầu tư kéo dài. Thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động.
-Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình.
-Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà chủ yếu là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ngay tại nơi mà nó được tạo dựng nên,do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng.
-Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao.
Mối quan hệ giữa 3 loại hình đầu tư
Đầu tư tài chính là nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển và đầu tư thương mại. Còn đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách Nhà nước, tăng tích lũy vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
II. Lạm phát
1 Khái niệm lạm phát
Như chúng ta đã biết, lạm phát là một vấn đề kinh tế vĩ mô và từ lâu đã có tác động vô cùng to lớn tới nền kinh tế. Vì vậy, lạm phát đã trở thành một mối quan tâm rất lớn của tất cả mọi người. Làm sao để có thể kiểm soát chúng cũng là một vấn đề đã gây ra rất nhiều trăn trở. Vậy lạm phát là gì?
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát được đề cập trong rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau.
Theo Các Mác trong bộ Tư Bản :” Lạm phát là việc tràn đầy những kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa dẫn tới giá cả tăng vọt”. Trên cơ sở đó ông nhìn nhận nguyên nhân của lạm phát là do bóc lột của chủ nghĩa tư bản, bóc lột bằng giá cả bởi họ là những người sản xuất ra hàng hoá. Tiền lương thực tế của người lao động giảm. Một bộ phận giàu lên nhanh chóng nhờ lạm phát, một bộ phận nghèo đi rõ rệt dẫn đến sự phân phối lại trong nền kinh tế. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là triệt tiêu chủ nghĩa tư bản.
Nhà kinh tế Samuelson thì cho rằng: Lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá chung. Theo ông: “Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng – giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ôtô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thue tư liệu sản xuất tăng”
Theo M.Friedmen: “Lạm phát là giá tăng nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng:” Lạm phát luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Lạm phát là kết quả tất yếu của nền kinh tế hiện đại.
Tóm lại, như vậy về thực chất lạm phát là hiện tượng thừa tiền trong nền kinh tế mà biểu hiện của nó là mặt bằng giá cả tăng lên.
2 Phân loại lạm phát
Có nhiều cách khác nhau để phân loại lạm phát. Mỗi cách phân loại dựa trên những tiêu thức nhất định.
Xét về mặt định tính :
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: tăng tương ứng với thu nhập. Chính vì vậy lạm phát không gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường rất hay xảy ra.
Lạm phát dự đoán được và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán được: Lạm phát xảy ra trong một khoảng thời gian tương đối dài với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Chính vì vậy, người ta có thể dự đoán được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo. Vế tâm lý, người dân đã quen với tình hình lạm phát đó và đã có những chuẩn bị để thích nghi với trạng lạm phát này. Đây là loại lạm phát nên duy trì vì nó không ảnh hưởng đến đời sống người lao động và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Lạm phát không dự đoán được( Lạm phát bất thường) : Lạm phát xảy ra có tính đột biến, không dự doán được. Do vậy, về mặt tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa được thích nghi. Lạm phát bất thường gây lên những cú sốc cho nền kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của người dân. Vì vậy, loại lạm phát này cần phải được giải quyết ngay.
Xét về mặt định lượng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia lạm phát thành:
Lạm phát một chữ số: Lạm phát này xảy ra khi giá tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%. Nó còn được gọi là lạm phát vừa phải. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế có thể chấp nhận được, với mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể. Nhà Nước thường muốn duy trì mức lạm phát lý tưởng là 5% vì nó thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế, khuyến khích doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh (vì lợi nhuận tăng 5%).
Khi lạm phát tăng 7,8,9% thì nó gây tác động nhẹ tới nền kinh tế, chưa ảnh hưởng xấu và Nhà Nước có thể kiểm soát được.
Lạm phát hai con số (lạm phát phi mã): Ở mức lạm phát hai con số thấp(11,12,13% năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là chưa đáng kể, nền kinh tế vẫn chấp nhận được. Nhưng khi ở mức hai con số cao lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì tác động tiêu cực của nó là không nhỏ nếu không muốn nói nó đã trở thành mối đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế..
Lạm phát ba con số (siêu lạm phát): Tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. Nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, thiếu thốn hàng hoá, quản lý chao đảo. Kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của người lao động giảm mạnh.
Như vậy, mỗi loại lạm phát có những tác động riêng tới nền kinh tế. Tuy vậy trên thực tế, lạm phát thường xuyên gây ra những tác động xấu, ảnh hưởng nghiêm trọng tới toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như đời sống của người dân nói riêng. Vậy, nguyên nhân nào dẫn đến lạm phát? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu phần tiếp theo.
3- Nguyên nhân của lạm phát.
Theo chủ nghĩa trọng thương: Lạm phát là ngăn sông cấm chợ. Do đó, giá hàng hoá tăng lên.
Theo chủ nghĩa trọng cầu: Lạm phát là do cầu quá nhiều trong nền kinh tế
Theo chủ nghĩa trọng cung: Lạm phát là hiện tượng thừa tiền của nền kinh tế
Theo quan điểm của kinh tế học vĩ mô, lạm phát có những nguyên nhân sau:
Do cung tiền tăng lên:
Như chúng ta đã biết, cung tiền tăng làm AD dịch chuyển sang phải. Trong thời gian ngắn sản phẩm tăng lên trên mức thất nghiệp tự nhiên. Điều đó làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tiền lương tăng lên và làm giảm tổng cung. Tại đây nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn và mức giá tăng lên.
Lạm phát do chi phí đẩy: Bản chất là chi phí tăng làm cho giá thành sản phẩm tăng.Nguyên nhân làm chi phí tăng có thể là do giá thành nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng hoặc do tiền trả cho người lao động tăng.
Lạm phát do cầu kéo: Do sự tăng lên liên tục của mức cầu mà sự gia tăng của mức cung không đáp ứng được.
Lạm phát do bội chi Ngân sách Nhà Nước: Trong số các biện pháp khắc phục bội chi, có những biện pháp làm lạm phát tăng. Mà cụ thể là việc phát hành tiền ra công chúng làm cung tiền tăng dẫn đến hiện tượng lạm phát.
Lạm phát theo tỷ giá hối đoái: (giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ)
Khi tỷ giá tăng: đồng nội tệ mất giá tác động đến tâm lý của người dân làm giá cả tăng. Hơn nữa giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng làm chi phí tăng (lạm phát chi phí đẩy).
4- Tác động của lạm phát
Lạm phát tác động rất lớn tới nền kinh tế. Lam phát cao có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội…
Sau đây là một số tác động chủ yếu của lạm phát :
Tác động tới lãi suất: Như chúng ta đã biết, lãi suất thực= Lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Do đó khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn cho lãi suất thực ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng tỷ lệ lạm phát. Điều đó làm đầu tư giảm dẫn đấn suy thoái kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Tác động tới thu nhập: Trong trường hợp tiền lương danh nghĩa không đổi, lạm phát tăng sẽ làm tiền lương tiền lương thực tế giảm
Tạo ra sự phân phối thu nhập không bình đẳng: Khi lạm phát xảy ra người tiêu dùng có xu hướng mua nhiều hàng hoá để tích trữ. Điều đó tạo cơ hội cho những nhà đầu cơ ép giá làm giá tăng. Một bộ phận trong nền kinh tế giàu lên, một bộ phận nghèo đi. Tình trạng lạm phát như vậy có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo. Vì vậy, chính phủ cần có biện pháp đánh thuế nặng vào những hàng hoá đầu cơ. Hay như trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng cao, ngườiôch vay sẽ là người chịu thiệt và người vay sẽ là người được lợi. Điều này cũng tạo nên sự phân phối bất bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay.
Một số tác động khác của lạm phát:
Gánh nặng nợ của quốc gia đang có lạm phát tăng vì lạm phát tăng làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ.
Hoạt đông xuất nhập khẩu bán được ít ngoại tệ hơn, mua phải trả nhiều ngoại tệ hơn
Làm giảm uy tín của quốc gia đó trên trường quốc tế, việc mở rộng quan hệ ngoại giao bị hạn chế.
Tệ nạn trong xã hội gia tăng: buôn tiền, rửa tiền, trộm cắp, đầu cơ…
Tổng kết lại, lạm phát cao và kéo dài đã gây những hậu quả lớn trong đời sống của người dân cũng như cản trở sự tăng trưởng kinh tế. Chính phủ các quốc gia cần có những biện pháp hữu hiệu mang tính chiến lược để phòng ngừa và khắc phục lạm phát. Tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có những biện pháp cụ thể. Có thể là các biện pháp mang tính tình thế hoặc những biện pháp mang tính lâu dài.
B/ LÍ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ LẠM PHÁT
I/ Lạm phát tác động đến đầu tư
1. Gây sụt giảm nhu cầu đầu tư
a/ Lạm phát tác động đến đầu tư thông qua lãi suất
Lạm phát luôn là một vấn đề rất nhạy cảm và nó tác động rất lớn đến nền kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng. Lạm phát cao sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài và nó sẽ gây ra một hậu quả rất khủng khiếp. Trước hết chúng ta sẽ đánh giá tác động của lạm phát đến đầu tư thông qua biến số lãi suất. Khi lạm phát được dự đoán là sẽ tăng lên trong thời kì nào đó thì nó sẽ làm cho lãi suất sẽ xu hướng tăng. Điều này có thể giải thích bằng cả hai hướng tiếp cận sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho thấy để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng.
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát.
Thứ hai, công chúng dự đoán tỷ lệ lạm phát tăng vì vậy họ sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc chuyển sang các dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh, hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài (nếu có thể)… để tránh mất giá của đồng nội tệ. Điều này sẽ khiến cho lượng tiền gửi tiết kiệm trong ngân hàng giảm mạnh do giảm cung quỹ cho vay. Trong kinh tế thị trường, nguyên tắc chung là lãi suất tiết kiệm phải cao hơn lạm phát để bảo đảm cho lãi suất thực dương. Nếu lãi suất tiết kiệm thấp hơn lạm phát thì lãi suất thực sẽ mang dấu âm, tức là không có lãi suất thực.
Trong thời kỳ lạm phát phi mã, lạm phát cao gấp nhiều lần lãi suất tiết kiệm, đến nỗi đã được ví như hiện tượng: người gửi tiền có giá trị như một con bò, gửi vào ngân hàng nhờ "quay vòng" hộ, nhưng đến khi rút ra chỉ còn giá trị như cái đuôi bò. Bởi vậy mà khi xảy ra lạm phát với tỷ lệ cao thì lãi suất có xu hướng tăng lên tương ứng để người có tiền gửi cảm thấy không quá thiệt.
Tất cả điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các nhà băng cũng như trên thị trường.
Vậy lãi suất cho vay ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng như thế nào?
Lãi suất thấp cũng khiến cho các nhà sản xuất, các chủ nông nghiệp và các cơ sở kinh doanh khác dễ dàng mượn vốn và đầu tư vào thiết bị hoặc những phạm trù cần các chi phí lớn khác. Thêm vào đó, nguồn thu lại từ những khoản đầu tư như vậy thì có giá trị hơn tại thời điểm ấy (tức là thời điểm khi mà lãi suất thấp) hơn khi lãi suất cao. Điều này khiến cho các doanh nghiệp lời nhiều hơn khi đầu tư với mức lãi suất thấp, và cũng theo đà đó mà giúp kinh tế phát triển nhanh hơn vì năng suất lao động tăng mạnh.
Một sự tăng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi tiêu hiện tại hơn là chi tiêu trong tương lai của cá nhân và công ty. Tín dụng trong nước, tổng lượng tiền và cầu thực tế đều giảm (nếu lãi suất giảm sẽ có tác động ngược lại): Khi lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia đình sẽ giảm nhu cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết định tiêu dùng của khu vực hộ gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết kiệm để cho tiêu dùng trong tương lai. Đối với khu vực doanh nghiệp, sự gia tăng lãi suất làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều hiển nhiên là lãi suất hay giá của vốn cao thì nhu cầu vay vốn giảm, nguồn vốn đầu tư vào các dự án giảm, quy mô vốn thấp. Khu vực nhà nước dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn vay hơn khu vực tư nhân và thường được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Bởi vậy, tác động của lãi suất đến khu vực tư nhân nhạy cảm hơn và mạnh hơn nhiều. Trong quá trình đầu tư, các doanh nghiệp tư nhân rất quan tâm tới biến động lãi suất vay vốn bởi nó là giá của vốn đầu tư, quyết định quy mô vốn đầu tư và ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận thực tế mà họ thu về được. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện với mức lãi suất cao hơn này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể giảm. Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như hàng trong kho) và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới dạng vốn lưu động.
Vấn đề đặt ra là phải có chính sách điều tiết lãi suất hợp lý để nó vừa kích thích đầu tư, tăng quy mô vốn vừa phản ánh đúng giá trị nguồn vốn cho vay trên thị trường.
b/ Lạm phát tác động đến đầu tư thông qua tăng trưởng kinh tế
Trong một thời kì dài các nhà kinh tế đã nghiên cứu cái giá phải trả cho lạm phát và tất cả đã đồng ý rằng lạm phát gây thiệt hại rất lớn cho xã hội. Lạm phát cũng làm tăng tình trạng bất ổn làm ảnh hưởng đến khả năng quyết định tốt nhất của dân chúng. Trong thời gian gần đây, các mô hình kinh tế và thực nghiệm cho thấy lạm phát cũng có ảnh hưởng tới tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế.