Thuế là một hinh thức động viên Tài chính đã đươc ra đời cùng với sự ra đời của bộ máy Nhà nước, thuế và các chính sách về thuế gắn liền với chính sách kinh tế - xã hội của một quốc gia Khi nền kinh tế phát triển tất yếu sẽ làm tăng thêm áp lực chi tiêu của chính phủ cho sự tiến bộ của xã hội. Để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu đó Nhà nước tìm cách khai thác tất cả mọi nguồn thu, xong trong tất cả các hình thức động viên, khai thác thì nguồn thu từ thuế vẫn là nguồn thu chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong Ngân sách Nhà nước.
Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt nam trong Đại hộ Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định nền kinh tế nước Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bao gồm các thành phần kinh tế: kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản
Trong thời kỳ hiện nay, thành phần kinh tế cá thể đã và đang cùng các thành phần kinh tế khác trong xã hội phát huy vai trò của mình, một mặt vừa đóng góp một phần của cải không nhỏ trong tổng thu nhập kinh tế quốc dân, đồng thời cũng góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc trong xã hội như: Vấn đề về vốn, về giá trị sản phẩm hàng hoá thực hiện, về công ăn việc làm cho người lao động
Vấn đề quản lý thuế lại càng gặp nhiều khó khăn hơn khi nước Việt nam mới thực hiện luật thuế GTGT thay thế cho luật thuế Doanh thu trước đây. Với quan điểm áp dụng các luật thuế mới trong chương trình cải cách chính sách kinh tế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế nước nhà hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời phải đảm bảo ổn định số thu ngân sách trong những năm đầu thực hiện luật quản lý thuế, tăng số thu cho ngân sách ở những năm tiếp theo, góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế đất nước.
Với ý nghĩa đó, qua thời gian thực tập tại Chi cục thuế huyện sơn dương , em được giúp đỡ tận tình của cán bộ trong cơ quan và chỉ bảo của thầy cô trong bộ môn tài chính doanh nghiệp, kết hợp với kiến thức đã học tập, bản thân em đã được nghiên cứu tìm hiểu phân tích, đánh giá trình độ, chức thực hiện các luật thuế nói chung và luật thuế GTGT nói riêng trên địa bàn huyện Sơn Dương.
Em mạnh dạn lựa chọn đi sâu nghiên cứu và viết về đề tài: ''Một số biện pháp hạn chế thất thu thuế GTGT đối với các hộ kinh tế cá thể thu thuế theo phương pháp trực trên địa bàn huyện Sơn Dương''.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Thuế GTGT và sự cần thiết phải hạn chế thất thu thuế GTGT.
Chương II: Thực trạng công tác hạn chế thất thu thuế GTGT đối với Hộ kinh tế cá thể nộp thuế theo phương pháp trực tiếp Trên địa bàn huyện Sơn Dương.
Chương III: Một số giải pháp tăng cường hạn chế thất thu thuế GTGT đối với Kinh tế cá thể trên địa bàn Chi cục thuế huyện Sơn Dương.
67 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2440 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp hạn chế thất thu thuế giá trị gia tăng đối với các hộ kinh tế cá thể thu thuế theo phương pháp trực trên địa bàn huyện Sơn Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Thuê là một hinh thức động viên Tài chính đã đươc ra đời cùng với sự ra đời của bộ máy Nhà nước, thuế và các chính sách về thuế gắn liền với chính sách kinh tế - xã hội của một quốc gia Khi nền kinh tế phát triển tất yếu sẽ làm tăng thêm áp lực chi tiêu của chính phủ cho sự tiến bộ của xã hội. Để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu đó Nhà nước tìm cách khai thác tất cả mọi nguồn thu, xong trong tất cả các hình thức động viên, khai thác thì nguồn thu từ thuế vẫn là nguồn thu chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong Ngân sách Nhà nước.
Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt nam trong Đại hộ Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định nền kinh tế nước Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bao gồm các thành phần kinh tế: kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản …
Trong thời kỳ hiện nay, thành phần kinh tế cá thể đã và đang cùng các thành phần kinh tế khác trong xã hội phát huy vai trò của mình, một mặt vừa đóng góp một phần của cải không nhỏ trong tổng thu nhập kinh tế quốc dân, đồng thời cũng góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc trong xã hội như: Vấn đề về vốn, về giá trị sản phẩm hàng hoá thực hiện, về công ăn việc làm cho người lao động…
Vấn đề quản lý thuế lại càng gặp nhiều khó khăn hơn khi nước Việt nam mới thực hiện luật thuế GTGT thay thế cho luật thuế Doanh thu trước đây. Với quan điểm áp dụng các luật thuế mới trong chương trình cải cách chính sách kinh tế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế nước nhà hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời phải đảm bảo ổn định số thu ngân sách trong những năm đầu thực hiện luật quản lý thuế, tăng số thu cho ngân sách ở những năm tiếp theo, góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế đất nước.
Với ý nghĩa đó, qua thời gian thực tập tại Chi cục thuế huyện sơn dương , em được giúp đỡ tận tình của cán bộ trong cơ quan và chỉ bảo của thầy cô trong bộ môn tài chính doanh nghiệp, kết hợp với kiến thức đã học tập, bản thân em đã được nghiên cứu tìm hiểu phân tích, đánh giá trình độ, chức thực hiện các luật thuế nói chung và luật thuế GTGT nói riêng trên địa bàn huyện Sơn Dương.
Em mạnh dạn lựa chọn đi sâu nghiên cứu và viết về đề tài: ''Một số biện pháp hạn chế thất thu thuế GTGT đối với các hộ kinh tế cá thể thu thuế theo phương pháp trực trên địa bàn huyện Sơn Dương''.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Thuế GTGT và sự cần thiết phải hạn chế thất thu thuế GTGT.
Chương II: Thực trạng công tác hạn chế thất thu thuế GTGT đối với Hộ kinh tế cá thể nộp thuế theo phương pháp trực tiếp Trên địa bàn huyện Sơn Dương.
Chương III: Một số giải pháp tăng cường hạn chế thất thu thuế GTGT đối với Kinh tế cá thể trên địa bàn Chi cục thuế huyện Sơn Dương.
Em là 1 sinh viên với kiến thức và sự hiểu biết về lý luận còn hạn chế, thời gian thực tập ngắn nên nội dung và phương pháp triển khai đề tài khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong được sự giúp đỡ chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các đồng chí trong ban lãnh đạo chi cục Sơn Dương và các cô chú, các bạn bè đã đọc đề tài này để đề tài được hoàn thiện và mang ý nghĩa thực tiễn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chương I
THUẾ GTGT VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI HẠN CHẾ THẤT THU THUẾ GTGT ĐỐI VỚI KINH TẾ CÁ THỂ
1.1. Lý thuyết chung về thuế GTGT.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế GTGT.
1.1.1.1. Khái niệm
Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu. Pháp là nước đầu tiên ban hành và áp dụng luật thuế này vào năm 1954 ở các ngành như: điện, khí đốt...Nhưng đến năm 1968, thuế GTGT đã được chính phủ Pháp cho áp dụng phổ biến ở tất cả các ngành. Từ nước Pháp, thuế GTGT ngày càng được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Đến nay đã có hơn 100 nước áp dụng chủ yếu là các nước ở khu vực châu Âu, châu Mỹ La Tinh, châu Phi.
Gần đây, thuế GTGT được nghiên cứu và áp dụng phổ biến ở khu vực Châu á như Triều Tiên (1970), Đài Loan (1986), Nhật Bản (1988).
ở Việt Nam, thuế GTGT được nghiên cứu từ khi tiến hành cải cách thuế bước I (1990) rồi được áp dụng thử nghiệm năm 1993 ở 11 đơn vị (Đường, dệt, xi măng...). Thuế GTGT được ban hành thành luật và được thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá 9 ngày 10 tháng 05 năm 1997, chính thức được áp dụng ngày 01 tháng 01 năm 1999.
Thuế GTGT là sắc thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
1.1.1.2.Đặc điểm thuế GTGT
Thứ nhất, thuế GTGT là sắc thuế thuộc loại thuế gián thu, không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá và dịch vụ. Về cơ bản, người nộp thuế theo luật và người trả thuế không đồng nhất với nhau.
Thứ hai, thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn sản xuất kinh doanh nhưng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn.
Thứ ba, thuế GTGT có tính trung lập kinh tế cao. Nó không chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi kết quả sản xuất kinh doanh của người nộp thuế. Thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm và không bị ảnh hưởng bởi quá trình phân đoạn sản xuất. Do đó, tổng số thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Thứ tư, thuế GTGT có khả năng đem lại số thu ổn định cho NSNN do người tiêu dùng dù thu nhập có tăng lên nhưng hầu hết nhu cầu tiêu dùng không tăng đáng kể. Thuế GTGT phụ thuộc vào mức tiêu dùng xã hội, phần lớn các nước áp dụng thuế GTGT có số thu về thuế GTGT chiếm khoảng 15% đến 30% tổng thu ngân sách (khoảng 5% đến 10% GDP).
1.1.1.3.Ưu, nhược điểm của thuế GTGT
Thuế GTGT là sắc thuế được nghiên cứu trong thời gian tương đối dài, đến nay đã có nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua thực tiễn cho thấy, thuế GTGT ngày càng thể hiện tính ưu việt và đã trở thành một trong những sắc thuế quan trọng của quốc gia, bởi thuế GTGT có những ưu điểm sau:
+ Việc áp dụng thuế GTGT có tác dụng tránh đánh trùng do thuế GTGT chỉ thu trên phần giá trị tăng thêm trên mỗi giai đoạn của quá trình luân chuyển hàng hoá.
+ Thuế GTGT bắt buộc người bán và người mua phải lập và lưu giữ chứng từ, hoá đơn đầy đủ. Vì vậy, công tác thu thuế tương đối sát với thực tế hoạt động kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, thanh tra.
+ Việc quản lý thu thuế GTGT rõ ràng minh bạch thông qua quy trình quản lý thuế mới. Đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế vào kho bạc theo quy định, tạo điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật trong quản lý.
+ Thuế GTGT được áp dụng với diện rộng, do đó đem lại số thu lớn, ổn định cho NSNN. Mặt khác, thực hiện thuế suất 0% đối với hàng xuất khẩu đã khuyến khích sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng xuất khẩu cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
+ Thuế GTGT góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực và thế giới.
Như vậy, qua các ưu điểm trên của thuế GTGT ta có thể thấy rõ thuế GTGT có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, thuế GTGT đã bộc lộ một số hạn chế, cụ thể:
+ Nhược điểm dễ thấy của thuế GTGT là tính phức tạp của sổ sách kế toán ghi chép, lưu giữ và quản lý biên lai hoá đơn chứng từ. Nhưng, nhận thức của người kinh doanh và tập quán kinh doanh không dùng hoá đơn chứng từ đã ăn sâu bám rễ không thể ngày một ngày hai có thể thay đổi được. Do đó, gây khó khăn cho công tác quản lý. Hơn nữa, để thực hiện tốt công tác khấu trừ và hoàn thuế đòi hỏi việc kiểm tra đối chiếu hoá đơn chứng từ của người mua và người bán phải được tiến hành kỹ lưỡng. Điều này phụ thuộc nhiều vào cơ sở vật chất của ngành thuế cũng như trình độ của cán bộ thuế. Đây là một vấn đề đang gặp nhiều khó khăn chưa thể giải quyết một sớm, một chiêu được.
+ Thuế GTGT là loại thuế có tính luỹ thoái, do có ít mức thuế suất, nên người tiêu dùng có thu nhập khác nhau đều phải nộp giống nhau, gây mất công bằng xã hội.
Qua những ưu điểm và hạn chế cơ bản đã cho thấy những thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý thuế GTGT. Trong đó, công tác quản lý thuế GTGT tiến hành đối với hộ cá thể bao gồm quản lý hộ kê khai và quản lý hộ khoán. Sau đây Em xin đi sâu vào nghiên cứu các nội dung cơ bản của luật thuế GTGT áp dụng đối với hộ kinh doanh cá thể nộp thuế theo kê khai để thấy rõ hơn vấn đề này, từ đó đưa ra các nhận xét cần thiết.
1.1.1.4. Những nội dung cơ bản của luật thuế GTGT.
( Người nộp thuế
Theo quy định tại điều 2 - Luật thuế GTGT và điều 2 - Nghị định số 158/2003/ NĐ - CP của Chính phủ, đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ 29nhóm mặt hàng không thuộc diện chịu thuế GTGT theo quy định.
( Người nộp thuế
Người nộp thuế GTGT là các cá nhân, hộ gia đình có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh (gọi chung là Người nộp thuế).
( Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế GTGT đối với Người nộp thuế là giá tính thuế và thuế suất.
+ Giá tính thuế GTGT: là giá bán của hàng hoá, dịch vụ bán ra chưa có thuế GTGT (phương pháp khấu trừ), hoặc giá thanh toán đã có thuế GTGT (phương pháp trực tiếp).
+ Thuế suất
Các mức thuế suất được quy định trong Luật thuế GTGT bao gồm 03 mức:
- Mức 0%: áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu.
- Mức 5%: áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ thiết yếu, phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng.
- Mức 10%: áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ thông thường.
( Phương pháp tính thuế
( Phương pháp khấu trừ thuế
- Đối tượng áp dụng: phương pháp này áp dụng đối với các hộ cá thể đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu về mở và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ các quy định của chế độ hoá đơn chứng từ, tự nguyện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ và đã được cơ quan thuế chấp nhận.
- Cách xác định thuế GTGT phải nộp:
Thuế GTGT
phải nộp
=
Thuế GTGT
đầu ra
-
Thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ
Trong đó:
Thuế GTGT
đầu ra
=
Giá tính thuế của
hàng hoá dịch vụ bán ra
x
Thuế suất thuế GTGT
của hàng hoá đó
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT của hàng hoá dịch vụ mua vào; ghi chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá chịu thuế GTGT hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho bên nước ngoài và trên các hóa đơn, chứng từ đặc thù.
( Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
- Đối tượng áp dụng: phương pháp này áp dụng đối với các hộ chưa thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ và hộ kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ
- Xác định thuế GTGT phải nộp
Số thuế GTGT
phải nộp
=
GTGT của hàng hoá
dịch vụ chịu thuế bán ra
x
Thuế suất thuế GTGT
hàng hoá dịch vụ đó
GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra
=
Doanh số của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra
-
Giá vốn của hàng hoá chịu thuế bán ra
- Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh như sau:
+ Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác định căn cứ vào giá mua, giá bán ghi trên chứng từ.
+ Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán hàng hoá, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ theo hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chưa thực hiện chế độ kế toán, không xác định được doanh số mua vào của hàng hoá bán ra thì GTGT được xác định bằng doanh thu nhân (x) với tỷ lệ phần trăm (%) GTGT tính trên doanh thu.
1.3. Thất thu thuế và sự cần thiết phải hạn chế thất thu thuế GTGT đối với kinh tế cá thể trên địa bàn huyện Sơn Dươg.
1.3.1. Đặc điểm và vai trò của kinh tế cá thể.
Từ quan điểm của Đảng ta cho thấy kinh tế cá thể có đặc điểm:
- Là loại hình có số lượng lao động hơn hẳn so với với những loại hình thức tổ chức sản xuất khác. Bản thân số lượng mày không phải là yếu tố quyết định song lại là cơ sở hình thành tính phong phú đa dạng không đồng nhất của hoạt động kinh tế diễn ra ở tất cả các hộ kinh doanh cá thể.
- Phạm vi hoạt động kinh tế cá thể tương đối rộng lớn và đa dạng, được phát triển ở mọi ngành nghề, phân bổ rộng từ khắp từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miến núi... và diễn ra trên mọi lĩnh vực sản xuất thương nghiệp dịch vụ. Điều này chứng tỏ Nhà nước có số thu thuế từ khu vực kinh tế cá thể trên phạm vi rộng.
- Kinh tế cá thể có thể tồn tại độc lập hoặc cũng có thể tham gia vào các lĩnh vực khác như: hợp tác xã, liên doanh liên kết... Quy mô của các hộ kinh tế nhin chung không lớn khoảng trung bình từ 5 đến 6 lao động.
Cùng với sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, kinh tế cá thể được coi là bộ phận hỗ trợ hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. Kinh tế cá thể tồn tại là một tất yếu khác quan xuất phát từ yêu cầu của xã hội và ngày càng khẳng định vai trò to lớn của nó:
- Kinh tế cá thể đã và sẽ tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, đáp ứng cho nhu cầu đời sống sinh hoạt của nhân dân, cung cấp các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, làm cầu nối giữa sản xuất và lưu thông tiêu dùng, tạo điều kiện cho việc lưu thông hàng hóa tiền tệ trong nền kinh tế nhanh chóng và có hiệu quả. Tham gia hỗ trợ những mặt mà kinh tế quốc doanh và các thành phần kinh tế khác chưa giải quyết được.
- Kinh tế cá thể đã góp phần to lớn để tạo công ăn việc làm. Khu vực quốc doanh ở nước Việt Nam tạo việc làm khoảng 11% trong tổng số lực lượng lao động. Gần 90% lao động làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh. Có rất nhiều hình thức thu hút lao động ngoài quốc doanh: Donh nghiệp tư nhân, cá nhân tự tạo việc làm, lao động làm thuế theo vụ việc, mua vụ ... song cho tới nay phổ biến nhất vẫn là hộ kinh tế cá thể. Bởi vì, hiện nay ở nước Việt Nam có khoảng 1,9 triệu hộ cá thể. Nếu cứ tính trung bình mỗi hộ sử dụng 2 lao động thì tổng cộng đã giải quyết được 3 triệu lao động mà còn có tác động đến vấn đề an ninh xã hội và gánh nặng chi tiêu của Nhà nước, để giải quyết vấn đề thất nghiệp và tệ nạn xã hội do không có việc làm tạo nên.
- Kinh tế cá thể ngày càng phát triển góp phần làm tăng tổng sản phẩm xã hội và đã đóng một phần thu nhập vào ngân sách Nhà nước đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn của Nhà nước.
Kinh tế cá thể nắm giữ một khối lượng vốn lớn trong nền kinh tế và có khả năng huy động được nhiều vốn. Ước tính mỗi người dân Việt Nam có khoảng gần 2 chỉ vàng tiết kiệm. Nếu như lượng vốn này được tham gia vào SXKD thì hiệu quả kinh tế của xã hội tăng lên, thúc đẩy mở rộng sản xuất, kích thích tiêu dùng. Từ đó thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Ngược lại, những thành phần kinh tế khác bị thiếu vốn để mở rộng SXKD thì có thể cho vay giảm bớt chi phí tiền vay khi phải vay của nước ngoài như hiện nay. Bên cạnh những mặt tích cực kinh tế cá thể có một số hạn chế dẫn đến việc tổ chức, quản lý đối tượng này gặp rất nhiều khó khăn. Với nguồn vốn huy động tùy thuộc vào ngành nghề và mặt hàng SXKD đã tạo nên sự đa dạng trong nguồn vốn dẫn tới khó khăn trong công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh tế cá thể và góp phần không nhỏ trong việc làm tăng số lượng thuế bị thất thu, vì khó xác định được một cách chính xac quy mô vốn và quy mô kinh doanh.
1.2.2 Sự cần thiết phải hạn chê thất thu thuế GTGT đối với các hộ cá thể
1.2.2.1. Thất thu thuế và ảnh hưởng của thất thu thuế
Thất thu thuế:
Là hiện tượng số thực thu vào Ngân sách Nhà nước thấp hơn so với số thuế lẽ ra phải thu được trong một khoảng thời gian nhất định.
Quan hệ pháp luât thuế là mối quan hệ lợi ích giữa một bên là Nhà nước và một bên là Người nộp thuế. Việc xử lý hài hòa mối quan hệ này là hết sức khó khăn và phức tạp đối với các nhà hoạch định chính sách thuế. Về căn bản một chính sách thuế hợp lý thì phải đảm bảo được lới ích của Nhà nước, vừa phải được sự đồng tình của quần chúng nhân dân. Thất thu thuế đã nảy sinh từ việc giải quyết mối quan hệ này.
Thất thu thuế có hai dạng chính:
Thất thu thuế tiềm năng: có thể hiểu là những khoản tiền được thuộc khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế đáng lẽ phải được bồi dưỡng, khai thác, động viên kịp thời vào ngân sách Nhà nước nhưng chưa được Nhà nước quy định trong luật thuế.
Thất thu thuế thực; chính là những khoản phải thu vào Ngân sách nhà nước đã được qui định trong luật nhưng thực tế lại chưa được thực thi hoặc thực thi nhưng kết quả nhỏ hơn kết quả phải đạt được.
Nguyên nhân của thất thu thuế:
- Thất thu thuế do trong chính sách chế độ còn nhiều kẽ hở, chưa bao quát hết các nguồn thu, một số quy định chưa cụ thể, rõ ràng có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau hoặc cách xác định thuế phức tạp và thuế suất cao là nguyên nhân thúc đẩy đối tượng nộp thuế trốn thuế hoặc liên kết với nhau tạo ra các hoạt động kinh tế giả để được giảm số thuế phải nộp hay được hưởng lợi từ thuế.
- Thất thu thuế do trình độ quản lý của cơ quan thuế yếu và tổ chức bộ máy chưa khoa học dẫn tới công việc kém. Đồng thời, còn do trình độ chuyên môn của cán bộ thuế chưa cao dẫn đến việc vận dụng sai luật thuê hoặc không thể phát hiện ra những mâu thuẫn.
- Thất thu do ý thức chấp hành luật thuế của người nộp thuế: trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu phấn đấu của các nhà kinh tế là lợi nhuận tối đa. Do vậy, họ luôn tìm cách để tăng lợi nhuận và giảm tối thiểu chi phí trong hoạt động SXKD của mình. Với việc cho rằng nộp thuế cho Nhà nước đã làm giảm đi quyền lợi vật chất mà lẽ ra họ được hưởng. Cho nên vì lợi ích trước mắt và riêng của mình họ luôn có tư tưởng và hành động không tuân thủ pháp luật về thuế, tìm mọi cách để không phải nộp thuế hoặc nộp với mớc thấp nhất so với nghĩa vụ phải nộp theo quy định trong các luật thuế.
ảnh hưởng của thất thu thuế
Qua tìm hiểu nguyên nhân thất thu thuế và các dạng thất thu thuế chúng ta có thể thấy rằng thất thu thuế có ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt tài chính, kinh tế, xã hội của đất nước. Nghiên cứu ảnh hưởng của thất thu thuế đối với những lĩnh vực trên sẽ cho thấy được sự cần thiết phải tăng cường hạn chế thất thu thuế.
+ Về mặt tài chính và kinh tế:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước và thường chiếm tỷ trọng trung bình từ 85%- 90% trong cơ cấu nguồn thu của Ngân sách. Thất thu thuế làm ảnh hưởng tới thu Ngân sách Nhà nước. Để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội Ngân sách Nhà nước cần một lượng vốn rất lớn. Thất thu thuế sẽ tạo gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước đồng thời tạo ra những tác động xấu về mặt xã hội.
+ Về mặt xã hội:
Một trong những mục tiêu quan trọng của thuế góp phần thực hiện công bằng xã hội trong động viên đóng góp. Tình trạng thất thu thuế sẽ tạo điều kiện cho những hoạt động SXKD trái pháp luật ảnh hưởng không tốt cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người kinh doanh chính đáng, gây ra nhiều tiêu cực xã hội. Bên cạnh đó thất thu thuế còn ảnh hưởng tới tính pháp lý của các luật thuế, các pháp lệnh thuế.
Chính vì vậy, chống thất thu thuế là một yêu cầu tất yếu khách quan nhằm đảm bảo ổn định và tăng thu ngân sách nhà nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Đồng thời chống thất thu thuế hiệu quả sẽ giúp cho mội quốc gia việc tạo môi trường kinh tế, xã hội ổn định, thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.2.2.2. Quy trình quản lý thuế GTGT đối với kinh doanh cá thể.
Hộ kinh doanh cá thể nộp thuế theo phương pháp trực tiếp được quản lý theo quy trình 1201/TCT/QĐ/TCCB ngày 26/07/2004 của Tổng cục thuế.
( Quy trình đăng ký thuế
Đây là khâu đầu tiên trong công tác quản lý thu thuế, việc kê khai đăng ký thuế của Người nộp thuế tạo điều kiện cho Chi cục thuế nắm được số hộ kinh doanh trên địa bàn từ đó lập sổ bộ thuế. Cán bộ thuế nhận tờ khai đăng ký thuế của đối tượng nộp thuế, kiểm tra tờ khai và nếu phát hiện hộ không có giấy phép đăng ký kinh doanh thì phải yêu cầu đăng ký ngay và có hình thức xử phạt hành chính. Quy trình này bao gồm các bước sau:
- Hướng dẫn hộ kinh doanh kê khai đăng ký thuế.
Nhận, kiểm tra hồ sơ đăng ký thuế: Đội thuế nhận và kiểm tra hồ sơ đăng ký thuế của hộ kinh doanh theo mẫu số 01/HKD và lập phiếu hẹn theo mẫu số 02/HKD trong đó