Đề tài Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở nhà máy thuốc lá Thăng Long

Trong thời đại khu vực hoá và toàn cầu hoá, chất lượng sản phẩm và dịch vụ có một vai trò hết sức quan trọng và đang trở thành một thách thức to lớn đối với mọi quốc gia trên con đường hội nhập vào thế kỷ 21. Thất bại hay thành công trong cuộc cạnh tranh vô cùng khốc liệt trên thương trường hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ thích hợp của hàng hoá và dịch vụ, sự hợp lý về giá cả, điều kiện mua bán giao nhận, xác định được thời điểm đưa hàng hoá ra thị trường Muốn cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường quốc tế cũng như trong nước để đạt lợi nhuận cao thì doanh nghiệp cần phải xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng thích hợp tiên tiến. Đối với Việt Nam với đường lối đổi mới và chính sách đa phương hoá trong các lĩnh vực, trước hết trong lĩnh vực kinh tế,việc nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ đang trở thành phương thức tất yếu, một biện pháp có hiệu lực để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế và đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập. Đối với nhà máy Thuốc lá Thăng Long nói riêng, trải qua hơn 45 năm tồn tại và phát triển ngày nay đã trở thành một trong những đơn vị vững mạnh của cả nước. Mặc dù sản phẩm thuốc lá bị hạn chế sử dụng vì có hại cho sức khoẻ nhưng nhà máy Thuốc lá Thăng Long hiện giờ vẫn chưa thể ngừng sản xuất được. Nếu giả sử như tất cả các cơ sở sản xuất thuốc lá của Việt Nam không hoạt động nữa thì thị trường thuốc lá nội địa sẽ bị lũng đoạn bởi thuốc lá nước ngoài.Hiện nay sản phẩm của nhà máy Thuốc lá Thăng Long đã được người tiêu dùng chấp nhận và chất lượng sản phẩm đã được cải thiện rõ rệt, nhưng trong công tác quản lý vẫn còn một số hạn chế nhất định. Để tìm ra những biện pháp thúc đẩy hơn nữa công tác quản lý chất lượng ở nhà máy Thuốc lá Thăng Long, tôi đã chọn đề tài ”một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở nhà máy Thuốc lá Thăng long" làm đề tài tốt nghiệp. Đề tài gồm ba phần chính như sau: Phần 1: Nâng cao chất lượng sản phẩm là mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp. Phần 2: Thực trạng chất lượng sản phẩm của nhà máy Thuốc Lá Thăng Long. Phần 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở nhà máy Thuốc Lá Thăng Long.

doc85 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2135 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở nhà máy thuốc lá Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong thời đại khu vực hoá và toàn cầu hoá, chất lượng sản phẩm và dịch vụ có một vai trò hết sức quan trọng và đang trở thành một thách thức to lớn đối với mọi quốc gia trên con đường hội nhập vào thế kỷ 21. Thất bại hay thành công trong cuộc cạnh tranh vô cùng khốc liệt trên thương trường hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ thích hợp của hàng hoá và dịch vụ, sự hợp lý về giá cả, điều kiện mua bán giao nhận, xác định được thời điểm đưa hàng hoá ra thị trường…Muốn cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường quốc tế cũng như trong nước để đạt lợi nhuận cao thì doanh nghiệp cần phải xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng thích hợp tiên tiến. Đối với Việt Nam với đường lối đổi mới và chính sách đa phương hoá trong các lĩnh vực, trước hết trong lĩnh vực kinh tế,việc nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ đang trở thành phương thức tất yếu, một biện pháp có hiệu lực để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế và đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập. Đối với nhà máy Thuốc lá Thăng Long nói riêng, trải qua hơn 45 năm tồn tại và phát triển ngày nay đã trở thành một trong những đơn vị vững mạnh của cả nước. Mặc dù sản phẩm thuốc lá bị hạn chế sử dụng vì có hại cho sức khoẻ nhưng nhà máy Thuốc lá Thăng Long hiện giờ vẫn chưa thể ngừng sản xuất được. Nếu giả sử như tất cả các cơ sở sản xuất thuốc lá của Việt Nam không hoạt động nữa thì thị trường thuốc lá nội địa sẽ bị lũng đoạn bởi thuốc lá nước ngoài.Hiện nay sản phẩm của nhà máy Thuốc lá Thăng Long đã được người tiêu dùng chấp nhận và chất lượng sản phẩm đã được cải thiện rõ rệt, nhưng trong công tác quản lý vẫn còn một số hạn chế nhất định. Để tìm ra những biện pháp thúc đẩy hơn nữa công tác quản lý chất lượng ở nhà máy Thuốc lá Thăng Long, tôi đã chọn đề tài ”một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở nhà máy Thuốc lá Thăng long" làm đề tài tốt nghiệp. Đề tài gồm ba phần chính như sau: Phần 1: Nâng cao chất lượng sản phẩm là mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp. Phần 2: Thực trạng chất lượng sản phẩm của nhà máy Thuốc Lá Thăng Long. Phần 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở nhà máy Thuốc Lá Thăng Long. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy, Tiến sĩ Vũ Minh Trai, tới các cô chú trong toàn bộ nhà máy Thuốc Lá Thăng Long đã giúp đỡ em trong suốt quá trình hình thành đề tài này. Hà nội, tháng 5 năm 2001 PHẦN I NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM LÀ MỤC TIÊU QUAN TRỌNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP I- CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM: 1.QUAN NIỆM VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM: Chất lượng sản phẩm là một phạm trù hết sức phức tạp mà con người thường hay gặp trong các hoạt động của mình.ở mỗi một góc độ khác nhau có cách giải thích khác nhau về chất lượng sản phẩm. 1.1.Chất lượng sản phẩm theo quan niệm của người sản xuất: Theo quan niệm của người sản xuất "sản phẩm muốn đạt đến chất lượng thì phải đạt đến những tiêu chuẩn, những yêu cầu về kinh tế kỹ thuật đặt ra cho mỗi sản phẩm, những tiêu chuẩn này được thiết kế trước theo một hệ thống tiêu chuẩn nhất định " Quan niệm này còn gọi là quan niệm hướng theo công nghệ, coi chất lượng sản phẩm là một vấn đề hết sức giản đơn có thể định lượng được bằng một loạt các chỉ tiêu. Doanh nghiệp dựa vào những chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng sản phẩm của mình, nhưng chỉ đơn thuần là về mặt kỹ thuật. Nói chung nhìn nhận chất lượng sản phẩm theo góc độ của người sản xuất còn có một số hạn chế: Thứ nhất, quan điểm này tách sản phẩm ra khỏi thị trường, chưa gắn sản phẩm với nhu cầu. Bởi vì thực tế là có rất nhiều sản phẩm đạt tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng không đáp ứng được những mong muốn của khách hàng và dẫn đến sản phẩm sản xuất ra nhưng chưa chắc đã bán được trên thị trường. Thứ hai, quan niệm này làm cho chất lượng sản phẩm bị tụt hậu so với nhu cầu của thị trường. Vì nhu cầu của con người luôn luôn thay đổi trong khi đó các tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm laị cố định một cách cứng nhắc. Cho nên luôn có khoảng cách giữa chất lượng trong tiêu chuẩn thiết kế với tiêu chuẩn chất lượng theo nhu cầu của người tiêu dùng. Cuối cùng do những quan niệm về chất lượng theo cách quan sát sản phẩm nên công tác quản lý chất lượng chủ yếu tập trung vào khâu sản xuất, đầu tư vào kiểm soát, kiểm tra sản phẩm cuối cùng. Cho nên có thể nói rằng khâu quản lý chất lượng mang tính chất rất cục bộ. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất hoặc mua sản phẩm là để bán cho người tiêu dùng. Chính vì vậy cần thiết phải nhìn nhận chất lượng sản phẩm dưới quan điểm của người tiêu dùng. 1.2. Chất lượng sản phẩm theo hướng thị trường: Đứng trên góc độ của người tiêu dùng chất lượng sản phẩm phải thể hiện các khía cạnh sau: _chất lượng sản phẩm là tập hợp các chỉ tiêu, những đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật hay tính hữu dụng của nó. _chất lượng sản phẩm được thể hiện cùng với chi phí. Người tiêu dùng không dễ gì mua một sản phẩm với bất kỳ gía nào. _chất lượng sản phẩm phải được gắn với điều kiện tiêu dùng cụ thể của từng người, từng địa phương…phong tục tập quán của một cộng đồng có thể phủ định hoàn toàn những thứ mà thông thường ta có thể cho là" có chất lượng " Từ những phân tích trên có thể đưa ra một quan niệm chất lượng sản phẩm tương đối hoàn chỉnh như sau :"chất lượng sản phẩm là tổng hợp những chỉ tiêu,những đặc trưng của sản phẩm thể hiện mức thoả mãn những nhu cầu trong những diều kiện tiêu dùng nhất định" Như vậy chất lượng sản phẩm không những chỉ là tập hợp các thuộc tính mà còn là mức độ các thuộc tính ấy thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong những điều kiện cụ thể. Hay nói cách khác, chất lượng sản phẩm hàng hoá vừa có đặc tính chủ quan , vừa có đặc tính khách quan. 2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM : Có nhiều yếu tố tác động đến chất lượng sản phẩm ,nhưng có thể gộp các yếu tố này thành hai nhóm là nhóm yếu tố bên ngoài và nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp. Dựa vào nhóm yếu tố này mà doanh nghiệp có thể xây dựng kế hoạch về chất lượng sản phẩm và luôn đổi mới sản phẩm để thoả mãn tột bậc mức kỳ vọng của khách hàng. 2.1.Nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp: Trong phạm vi một doanh nghiệp, tất cả những gì tác động trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất đều ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Qui tắc 4M đã chỉ ra rằng, đó chính là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, con người và phương pháp tổ chức quản lý. Điều này có thể được khái quát theo sơ đồ xương cá sau: Sau đây ta sẽ nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố tới chất lượng sản phẩm Thứ nhất là nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là yếu tố cấu thành nên thực thể sản phẩm, chiếm khoảng 60-80% giá trị của sản phẩm. Cho nên không thể nói rằng chất lượng nguyên vật liệu không ảnh hưởng gì đến chất lượng sản phẩm mà ngược lại đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp nhất, mạnh mẽ nhất. Nguyên vật liệu, chất lượng có tốt, có đồng bộ, đầy đủ, cung cấp kịp thời mới là điều kiện cần thiết để tạo nên một sản phẩm có chất lượng hoàn chỉnh, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy khi xuất nguyên vật liệu ra khỏi kho đưa vào quá trình sản xuất,nhất thiết phải kiểm tra tiêu chuẩn của các yếu tố đầu vào này.Ngoài ra doanh nghiệp cũng phải quan tâm đến việc xây dựng cho mình một hệ thống các nhà cung ứng đầy tín nhiệm và bền chặt để tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào một nhà cung cấp mà vẫn đem lại lợi ích cho cả hai bên Thứ hai là:Kỹ thuật-công nghệ tiến bộ: Quá trình công nghệ là một quá trình phức tạp, qua quá trình này tính chất ban đầu của nguyên vật liệu được thay đổi, bổ sung hoặc cải thiện theo hướng phù hợp với công dụng của sản phẩm. Cho nên công nghệ là yếu tố quyết định đến việc hình thành chất lượng sản phẩm. Còn khoa học là yếu tạo ra lực đẩy, khả năng cải tiến và nâng cao chất lượng. Điều này được thể hiện qua sự sáng tạo, sáng chế ra các sản phẩm mới, sản phẩm thay thế có tính năng sử dụng cao hơn, hoặc tạo ra các máy móc thiết bị mới có khả năng sản xuất các sản phẩm tốt hơn, ở trình độ cao hơn. Mặc dù kỹ thuật và công nghệ được đổi mới nhưng thiết bị cũ thì không thể nào nâng cao được chất lượng sản phẩm. Hay nói cách khác nhóm yếu tố kỹ thuật-công nghệ –thiết bị có mối quan hệ tương hỗ khá chặt chẽ, không chỉ góp phần vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường, đa dạng hoá chủng loại nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao mà chi phí bỏ ra lại thấp. Yếu tố thứ ba là phương pháp tổ chức quản lý Có nguyên vật liệu tốt, có kỹ thuật thiết bị công nghệ hiện đại, nhưng không biết tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm, tổ chức tiêu thụ, vận chuyển, dự trữ bảo quản hàng hoá, sửa chữa vận hành và nâng cấp máy móc thiết bị…hay nói cách khác không biết tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh thì không thể nào nâng cao đựơc chất lượng sản phẩm . Thật là sai lầm khi cho rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu là hoàn toàn phụ thuộc vào người công nhân, vào các yếu tố của quá trình sản xuất. Nhưng thực tế lỗi trực tiếp sản xuất chỉ chiếm từ 15-20%, trong khi đó 80-85%là do lỗi của hệ thống quản lý không hoàn hảo." Những vấn đề chất lượng tốn kém nhất thường là bắt nguồn từ đầu bút chì và từ đầu dây điện thoại". Muốn giải quyết tốt, cần có sự điều chỉnh có mục tiêu, chứ không thể dùng các biện pháp chữa cháy, các biện pháp tình thế ngày một ngày hai. Vấn đề chất lượng là trách nhiệm của mọi thành viên trong doanh nghiệp, trong đó phương pháp tổ chức quản lý giữ vai trò quyết định. Nhân tố cuối cùng trong nhóm nhân tố nội bộ doanh nghiệp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm là nhân tố con người. Con người là nhân tố quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng sản phẩm. Vì thực ra con người chính là lực lượng lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu. Phải hiều rằng con người ở đây không chỉ riêng là người lao động trực tiếp sản xuất mà còn là cán bộ lãnh đạo của đơn vị thậm chí còn xét cả bản thân người tiêu dùng. Sản phẩm đạt tiêu chuẩn trong sản xuất kỹ thuật nhưng không được người tiêu dùng chấp nhận nằm ứ đọng trong kho thì không thể nói là sản phẩm có chất lượng được. Chất lượng phải tính toàn bộ từ khâu đầu vào cho đến khâu cuối cùng là khâu tiêu thụ sản phẩm đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng chứ không phải tính riêng cho quá trình sản xuất cục bộ. Muốn thực hiện chất lượng sản phẩm một cách toàn diện thì ít nhất đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao phải có nhận thức mới về việc nâng cao chất lượng sản phẩm để có những chủ trương, những chính sách đúng đắn về chất lượng sản phẩm thể hiện trong mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng.Vấn đề con người phải được đặt lên hàng đầu, con người cần phải được đào tạo mà trước mắt là cán bộ quản lý rồi mới đến công nhân kỹ thuật. Mọi người phải có nhận thức rằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm là trách nhiệm và vinh dự của mọi thành viên, là sự sống còn, là quyền lợi thiết thân đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự phân chia tách bạch các yếu tố trên chỉ là qui ước, để hiểu rõ tác động của từng nhân tố đến chất lượng sản phẩm chứ thực ra trong yếu tố này có yếu tố kia, yếu tố kia lại quay trở lại tác động vào yếu tố này. Các yếu tố là một thể thống nhất, có mối quan hệ hữu cơ với nhau và được thể hiện qua sơ đồ 2: Sơ đồ 2: 2.2 Nhóm yếu tố bên ngoài doanh nghiệp Doanh nghiệp cũng như một cơ thể sống, cũng phải trao đổi với môi trường bên ngoài. Doanh nghiệp nào mà tự tách mình ra khỏi môi trường thì doanh nghiệp đó khó có thể tồn tại được huống chi là nói đến vấn đề phát triển và mở rộng qui mô. Cho nên khi xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm không thể bỏ qua các nhân tố về thị trường, về sự phát triển của khoa học kỹ thuật, về chính sách quản lý của nhà nước… 2.2.1.Nhu cầu của nền kinh tế *Đòi hỏi của thị trường: Nhu cầu của thị trường về sản phẩm đó như thế nào: cỡ, loại, tính năng kỹ thuật, số lượng, cho ai sử dụng, vào những lúc nào…Hơn nữa, đòi hỏi của thị trường trong nước lại khác với thị trường nước ngoài. Trên mỗi thị trường lại có yêu cầu khác nhau đối với từng đối tượng sử dụng. Đó là chưa nói đến sự biến đổi của thị trường về một phương diện nào đó, theo một chiều hướng nào đó cũng làm cho sản phẩm phải được điều chỉnh thích ứng về chất lượng. Nhạy cảm với thị trường là nguồn sinh lực của quá trình hình thành và phát triển tất cả các loại sản phẩm, điều quan trọng là phải theo dõi, nắm chắc, đánh giá đúng tình hình và đòi hỏi của thị trường, nghiên cứu, lượng hoá từ đó có đối sách đúng đắn. *Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất : Đó là khả năng kinh tế và trình độ kỹ thuật có cho phép hình thành và phát triển một sản phẩm nào đó có mức chất lượng tối ưu hay không. Đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề nội tại của bản thân nền sản xuất xã hội, nhưng việc nâng cao chất lượng không thể vượt ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế. Cho nên logic của vấn đề là muốn sản phẩm có chất lượng thì phải trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất, trình độ kinh tế; và muốn vậy ngay từ đầu của quá trình sản xuất, quá trình phát triển kinh tế phải đảm bảo chất lượng công việc, chất lượng hợp lý nhất cho những sản phẩm làm ra. *Chính sác kinh tế: Hướng đầu tư, hướng phát triển loại sản phẩm và mức thoả mãn các loại nhu cầu của chính sách kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Như chính sách khuyến khích sản xuất những sản phẩm gì và không khuyến khích những sản phẩm gì, khuyến khích xuất khẩu những sản phẩm nào, với mức lợi nhuận nào cần có; chính sách khích lệ người lao động như thế nào…Ngay cả chính sách trong sự hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật nhằm tạo con đượng đặc thù trong phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định nào đó cũng trực tiếp chi phối sự thuận lợi hay không thuận lợi cho sự phát triển về chất lượng sản phẩm. 2.2.2.Sự phát triển của khoa học công nghệ Trong thời đại ngày nay, cùng với đặc điểm là khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trình độ chất lượng của bất cứ sản phẩm nào cũng gắn liền và bị chi phối bởi sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất. Xét trong việc tổ chức ra một sản phẩm cụ thể nào đó, cái quyết định để có sự nhảy vọt về năng suất, chất lượng và hiệu quả chính là việc ứng dụng các thành tựu tiến bộ. Hướng chính của việc áp dụng các kỹ thuật tiến bộ hiện nay là: -Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế. Bằng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xác lập các vật liệu mới (đặc biệt là các nguồn nguyên liệu có sẵn, chủ động ) có thể hoặc tạo nên những tính chất đặc trưng mới cho sản phẩm tạo thành, hoặc thay thế cho sản phẩm cũ nhưng duy trì được tính chất cơ bản của sản phẩm. Ở đây có điều quan trọng là khi sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế nhất thiết phải qua nghiên cứu, thử nghiệm, đánh giá, kết luận về công dụng của nó có đúng nghĩa vật liệu mới hay vật liệu thay thế không. -Hướng thứ hai là cải tiến hay đổi mới công nghệ: Với sản phẩm đã xác định, một công nghệ nào đó chỉ cho phép đạt tới một mức chất lượng tối đa ứng với nó. Công nghệ chế tạo càng tiến bộ thì càng có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn, ổn định hơn. Ví dụ trong ngành đúc, công nghệ đúc bằng khuôn kim loại có năng suất và chất lượng hơn khuôn đúc cát; trong nhiệt luyện, tôi trên máy tần số chất lượng gia công bề mặt đồng đều hơn là tôi ở lò điện hay lò phản xạ. Ở nước ta nói chung, trình độ trang bị công nghệ của các ngành sản xuất chưa cao, còn nhiều bất hợp lý tiềm năng chưa khai thác hết. Vì vậy, đồng thời với việc thiết lập các hệ thống công nghệ hiện đại, cần tập trung cải tiến, đổi mới công nghệ từng phần sắp xếp các dây chuyền công nghệ sản xuất hợp lý, đây là điều quan trọng đặc biệt, nó sẽ đem lại hiệu quả một cách nhanh chóng và tiết kiệm cho nền kinh tế. -Hướng thứ ba là hướng cải tiến sản phẩm cũ và chế thử sản phẩm mới: Bằng cách áp dụng tiến bộ khoa học, cải tiến, nâng cao tính năng kỹ thuật hay giá trị sử dụng của các sản phẩm hiện có, làm cho nó thoả mãn mục đích và yêu cầu sử dụng một cách tốt hơn. Tuỳ từng sản phẩm mà có nội dung cải tiến khác nhau, nhưng hướng chung là cải tiến nhằm ổn định và nâng cao những chỉ tiêu cơ bản. Với sản phẩm hướng chính là tạo ra cỡ loại, thông số, kích thước cơ bản và các chỉ tiêu đặc trưng cho chất lượng nhằm đáp ứng những nhu cầu mới xuất hiện hoặc thoả mãn những nhu cầu nâng cao của mục đích sử dụng cũ. Ở nước ta, cải tiến chất lượng cho những sản phẩm đã có trên cơ sở phát huy tiềm năng của công nghệ, của vật tư, của lao động hiện có là nội dung và biện pháp có ý nghĩa hàng đầu, ít tốn kém và đem lại hiệu quả nhanh. Tất nhiên, việc nghiên cứu chế thử sản phẩm mới có ý nghĩa riêng của nó. Nhưng phải có tính toán, cân nhắc, chuẩn bị chu đáo, để thưc sự có sản phẩm đúng nghĩa là mới, tức là tiến bộ hơn, có tính năng kỹ thuật và giá trị sử dụng ưu việt hơn sản phẩm cùng loại đã có. Thực ra có rất nhiều hướng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhưng trên đây là ba hướng cơ bản, điển hình hơn cả. Doanh nghiệp sẽ dựa vào đặc điểm nội lực của mình để lựa chọn hướng áp dụng cụ thể. Điều quan trọng không phải là áp dụng nhiều hướng, mà là kết quả cuối cùng sản phẩm của mình sau khi áp dụng một loạt các biện pháp ấy có được người tiêu dùng thừa nhận hay không, doanh số và lợi nhuận có tăng lên hay không? 2.2.3.Hiệu lực của cơ chế quản lý kinh tế: Bất kỳ hoạt động sản xuất nào, dưới chế độ nào cũng chịu tác động, chịu chi phối của cơ chế quản lý kinh tế, kỹ thuật, xã hội nhất định. Do đó chất lượng sản phẩm cũng bị yếu tố này qui định. Điều ấy được thể hiện qua các mặt sau đây: *Kế hoạch hoá phát triển kinh tế: Một quan điểm, một phương pháp kế hoạch hoá đảm bảo nguyên tắc cân đối các yếu tố vật chất và tinh thần, cân đối giữa số lượng và chất lượng, cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, lấy yêu cầu chất lượng tiêu dùng làm điểm xuất phát thì nhất định sự phát triển sản xuất sẽ đi vào con đường đảm bảo chất lượng. Trong quá trình xây dựng, xét duyệt, đánh giá hoàn thành kế hoạch, nếu luôn luôn tính tới yếu tố chất lượng, không đem chất lượng đối lập với số lượng, phân tích sâu sắc tỉ mỉ hiệu quả chung đem lại …thì chắc chắn sản phẩm làm ra sẽ đạt được tới mức chất lượng hợp lý nhất trong điều kiện cho phép. *Giá cả: Giá cả phải định theo mức chất lượng.Sản phẩm có nhiều mức chất lượng khác nhau thì phải có giá trị tương ứng khác nhau. Đồng thời, chênh lệch giá giữa các sản phẩm cùng loại có mức chất lượng khác nhau phải đảm bảo khuyến khích sản xuất ra sản phẩm có mức chất lượng cao. *Chính sách đầu tư: Chú trọng đầu tư theo chiều sâu để nâng cao hiệu quả tổng hợp của lực lượng sản xuất bằng cách dành lực lượng như thiết bị, cán bộ…thích đáng cho việc nghiên cứu, chế thử…nhằm nâng cao chất lượng. Đây là hướng đầu tư quan trọng nhất để nâng cao chất lượng và hiệu quả chung của nền kinh tế . *Tổ chức quản lý về chất lượng : Đó chính là việc hình thành cơ chế quản lý chất lượng sản phẩm trong cơ chế chung của quản lý kinh tế. Mục tiêu chất lượng và hiệu quả phải được thể hiện trong từng việc làm và kết quả cụ thể của mọi mặt hoạt động có liên quan từ nghiên cứu, thiết kế, chế thử đến tổ chức sản xuất, lưu thông, sử dụng sản phẩm. Tóm lại một cơ chế hợp lý, một môi trường pháp luật bình đẳng và đồng bộ là điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực chất lượng hoạt động. Chính nhà nước sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, buộc các doanh nghiệp muốn đứng vững để phát triển phải đưa vấn đề nâng cao chất lượng lên hàng đầu. II-NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM 1-BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM 1.1.Bản chất quản lý chất lượng sản phẩm Có rất nhiều khái niệm khác nhau về quản lý chất lượng nhưng quan niệm về quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO9000 được sử dụng phổ biến hơn. ISO9000 cho rằng : " Quản lý chất lượng là một tập hợp những hoạt động có chức năng quản lý chung nhằm xác định chính sách chất lượng, mục đích chất lượng và thực hiện chúng