Trong nền kinh tếthịtrường hiện nay, mức độcạnh tranh giữa các doanh nghiệp
ngày càng khốc liệt hơn, thì bất cứmột loại hình doanh nghiệp nào cũng phải đối mặt
với những khó khăn và thửthách [10]. Sựphát triển vững mạnh của một doanh nghiệp
phụthuộc vào nhiều nhân tốtrong đó khảnăng ứng xửgiá linh hoạt, biết tính toán chi
phí, biết khai thác những tiềm năng sẵn có của mình đểgiảm chi phí tới mức thấp nhất
và đạt được lợi nhuận nhưmong muốn [10]. Vì thế, để đứng vững trên thương trường,
tránh nguy cơbị đào thải bởi quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơchếthịtrường,
các doanh nghiệp cần phải nắm bắt và đáp ứng được tâm lý, nhu cầu của người tiêu
dùng với sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã phong phú, đa dạng chủng
loại. Chính vì vậy, việc đưa ra một giá bán hợp lý là rất quan trọng đến sựtồn vong và
phát triển của doanh nghiệp. Nhưng đểcó một giá bán hợp lý thì việc tiết giảm chi phí
và hạgiá thành là yếu tốthiết yếu trong doanh nghiệp.
Thông tin chi phí, giá thành có ý nghĩa sâu sắc với công tác quản trịdoanh nghiệp
bởi vì trên cơsở đó, người quản lý mới xây dựng được cơcấu chi phí sản xuất, cơcấu
giá sản phẩm sao cho hợp lý nhất.
73 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3609 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành của sản phẩm tại công ty TNHH Tân Thiên Phú, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
W X
1. Lý do chọn đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
ngày càng khốc liệt hơn, thì bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào cũng phải đối mặt
với những khó khăn và thử thách [10]. Sự phát triển vững mạnh của một doanh nghiệp
phụ thuộc vào nhiều nhân tố trong đó khả năng ứng xử giá linh hoạt, biết tính toán chi
phí, biết khai thác những tiềm năng sẵn có của mình để giảm chi phí tới mức thấp nhất
và đạt được lợi nhuận như mong muốn [10]. Vì thế, để đứng vững trên thương trường,
tránh nguy cơ bị đào thải bởi quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường,
các doanh nghiệp cần phải nắm bắt và đáp ứng được tâm lý, nhu cầu của người tiêu
dùng với sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã phong phú, đa dạng chủng
loại. Chính vì vậy, việc đưa ra một giá bán hợp lý là rất quan trọng đến sự tồn vong và
phát triển của doanh nghiệp. Nhưng để có một giá bán hợp lý thì việc tiết giảm chi phí
và hạ giá thành là yếu tố thiết yếu trong doanh nghiệp.
Thông tin chi phí, giá thành có ý nghĩa sâu sắc với công tác quản trị doanh nghiệp
bởi vì trên cơ sở đó, người quản lý mới xây dựng được cơ cấu chi phí sản xuất, cơ cấu
giá sản phẩm sao cho hợp lý nhất.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của vấn đề, em quyết định chọn đề tài “Một số
biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành của sản phẩm tại Công Ty TNHH Tân
Thiên Phú”
2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu của đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống kế toán DN phải bao gồm kế toán tài chính
và KTQT. Sự tồn tại hai bộ phận chuyên môn kế toán này hoàn toàn không mâu thuẫn
mà tạo nên sự hỗ trợ cần thiết để đảm bảo cho chức năng phản ảnh và cung cấp thông
tin kế toán. Sự cạnh tranh càng gia tăng, KTQT càng bức thiết, càng nổi bật vai trò
[12].
2
Ngày nay, nội dung KTQT được ứng dụng rộng rãi trong các DN nhất là ở các
nước mới, phát triển kinh tế thị trường, là hệ thống KTQT hỗn hợp với nhiều nội dung,
trình độ khác nhau. Trong đó, nổi bật nhất là những nội dung KTQT liên quan đến
thiết lập thông tin để hoạch định, kiểm soát tài chính, thông tin để giảm những tổn thất
nguồn lực kinh tế trong hoạt động SXKD và thông tin để sử dụng hiệu quả nguồn lực
kinh tế trong quy trình tạo ra giá trị [6].
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển bền vững cần phải biết tự chủ về mọi mặt trong hoạt động sản xuất kinh
doanh từ việc đầu tư, sử dụng vốn, tổ chức sản xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm, phải
biết tận dụng năng lực, cơ hội để lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn. Để có
được điều đó, một trong những biện pháp là mỗi doanh nghiệp đều không ngừng hạ
giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm [6].
Trong suốt quá trình thực tập tại công ty em cũng đã đọc nhiều đề tài như “Kế toán
xác định kết quả kinh doanh và phân phối lợi nhuận”, “Công tác quản lý và sử dụng tài
sản cố định”…. Trong đó cũng có một số đề tài tìm hiểu về chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm như: “Hoàn thiện quy trình kế toán chi phí nguyên vật liệu”, “Hoàn
thiện kế toán chi phí và tính giá thành”…. Các đề tài này đã nêu ra được một số vấn đề
còn vướng mắc về chi phí cấu thành nên sản phẩm, nhưng vẫn chưa tìm ra được biện
pháp phù hợp để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm,…. Khi thực hiện đề tài em sẽ
tìm hiểu, làm rõ các yếu tố tạo nên sự biến động về giá thành sản phẩm, chỉ ra được
những chi phí bỏ ra không phù hợp trong quá trình sản xuất, từ đó sẽ đề xuất một số
biện pháp giúp giảm thiểu những chi phí không phù hợp trong công tác quản lý của
doanh nghiệp.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Quan sát quá trình sản xuất sản phẩm tại phân xưởng sản xuất.
- Thu thập số liệu từ phòng kế toán, tham khảo các tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp xử lý số liệu:
+ Phương pháp tổng hợp (thu thập, tổng hợp số liệu)
3
+ Phương pháp so sánh (đối chiếu, so sánh số liệu qua từng năm)
4. Mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là vận dụng lý luận về kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm, kết hợp với phương pháp phân tích giá thành đã học ở
trường và nghiên cứu thực tiễn từ đó phân tích, nhận xét, đưa ra một số ý kiến đề xuất
nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành của sản phẩm để nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Đối tượng nghiên cứu: các sản phẩm gốm sứ.
- Phạm vi nghiên cứu là các số liệu, tài liệu của 6 tháng cuối năm 2008 và 6 tháng
đầu năm 2009.
5. Điểm mới của đề tài:
Là những đề xuất quản lý và biện pháp tiết kiệm chi phí một cách hợp lý, từ đó
giúp doanh nghiệp có thể giảm giá thành sản phẩm, nhằm tăng lợi nhuận kinh doanh
tại công ty TNHH Tân Thiên Phú.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài báo cáo gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chi phí kinh doanh và giá thành của sản phẩm
trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý chi phí và giá thành của sản phẩm tại
công ty TNHH Tân Thiên Phú.
Chương 3: Phương hướng và biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí và hạ giá thành
của sản phẩm tại công ty TNHH Tân Thiên Phú.
4
Chương I
Lý luận chung về
Chi phí kinh doanh và
giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
1.1. Chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
1.1.1, Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1.1, Khái niệm và đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1.1.1, Khái niệm.
Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của một doanh nghiệp là tạo ra những
sản phẩm nhất định và tiêu thụ những sản phẩm đó trên thị trường nhằm thu được lợi
nhuận. Nhưng bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh thì cũng đều phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định [11].
Các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trước hết là các chi phí cho việc sản
xuất sản phẩm. Trong khi tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp phải tiêu hao các vật tư
như: Nguyên vật liệu, hao mòn máy móc, thiết bị, các công cụ dụng cụ, các khoản chi
phí về tiền lương hay tiền công cho người lao động.
Như vậy, chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí về vật chất và lao động mà các doanh nghiệp phải bỏ ra để sản
xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất
thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm nên gọi là chi phí sản xuất
của doanh nghiệp [11].
Doanh nghiệp ngoài việc sản xuất, chế biến còn phải tổ chức tiêu thụ sản
phẩm. Trong quá trình này doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những khoản chi phí nhất
5
định như: Chi phí về bao bì đóng gói sản phẩm, chi phí vận chuyển, bảo quản. Ngoài
ra để giới thiệu rộng rãi sản phẩm cho người tiêu dùng, cũng như để hướng dẫn người
tiêu dùng hoặc thăm dò khảo sát thị trường nhằm đề ra những quyết định có tính chất
tối ưu đối với việc sản xuất thì doanh nghiệp cũng phải bỏ ra các chi phí về nghiên
cứu, tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu hay bảo hành sản phẩm.
Ngoài những chi phí sản xuất và chi phí sinh hoạt, trong quá trình hoạt động
của doanh nghiệp còn bỏ ra những khoản chi phí phục vụ cho những hoạt động của bộ
máy quản lý doanh nghiệp có liên quan đến quá trình kinh doanh [11].
Như vậy, nhìn từ góc độ doanh nghiệp, có thể thấy chi phí sản xuất kinh doanh
của một doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí
quản lý doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh và các khoản
thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh
trong một thời kỳ nhất định [11].
Để đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh tốt đòi hỏi doanh nghiệp cần
phải có doanh thu từ hoạt động kinh doanh bù đắp, trang trải được toàn bộ chi phí kinh
doanh và thu được lợi nhuận cao. Điều này cho thấy không phải khoản mục chi phí
nào cũng được đưa vào chi phí hoạt động mà chúng ta phải xét đến tính chất, đặc điểm
của nó.
Chi phí kinh doanh là một chỉ tiêu quan trọng. Qua xem xét chỉ tiêu này có thể
đánh giá được trình độ quản lý kinh doanh, tình hình sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí
của doanh nghiệp. Chi phí kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mà lợi nhuận
là mục tiêu kinh doanh, mục đích cuối cùng của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh
nghiệp phải luôn quan tâm đến vấn đề quản lý chi phí, bởi lẽ mỗi đồng chi phí không
hợp lý đều làm tăng giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó, hạ
thấp chi phí kinh doanh là một điều kiện để doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình
và đảm bảo cho sự tồn tại và đi lên của doanh nghiệp [11].
1.1.1.1.2, Đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
6
Mỗi doanh nghiệp kinh doanh khác nhau thì đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất là khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí là phạm vi giới hạn mà chi phí cần tập
hợp nhằm phục vụ cho việc thông tin kiểm tra chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cần thiết cho công tác
hạch toán kế toán chi phí sản xuất sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình hoạt
động sản xuất, đặc điểm quy trình sản phẩm và đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí của
doanh nghiệp. Từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức tài khoản và mở
sổ chi tiết đều phải theo đúng đối tượng kế toán chi phí đã xác định.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong ngành sản xuất nói
chung và trong sản xuất gốm – thiếc nói riêng thường căn cứ vào:
- Đặc điểm quy trình công nghệ của việc sản xuất sản phẩm (việc sản
xuất sản phẩm là giản đơn hay phức tạp, liên tục hay song song)
- Loại hình sản xuất sản phẩm (sản xuất đơn chiếc hay hàng loạt)
- Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
- Đặc điểm tổ chưc bộ máy quản lý (hay yêu cầu quản lý).
- Đơn vị tính giá thành trong doanh nghiệp
Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần
thiết và quan trọng của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Có xác định đúng
đối tượng hạch toán, tập hợp chính xác các khoản chi phí phát sinh phù hợp với đặc
điểm tổ chức và sản xuất của doanh nghiệp mới giúp cho tổ chức tốt công tác chi
phí.
1.1.1.2, Phân loại chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
Chi phí phải trả trong năm tài chính bao gồm nhiều khoản chi phí. Các chi phí
này khác nhau về nội dung kinh doanh, tính chất của chi phí, vai trò của nó trong việc
tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Để tạo điều kiện cho công tác quản lý và hạch toán chi phí
tính giá thành sản phẩm từ đó tính đúng kết quả từng loại hoạt động kinh doanh thì
việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo các tiêu thức là rất cần thiết [11].
7
Để phân loại chi phí sản xuất người ta có rất nhiều tiêu thức khác nhau nhưng về
mặt cơ bản người ta dùng ba tiêu thức chủ yếu:
Một là, phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung, tính chất kinh tế
[11].
Theo cách phân loại này chi phí chia thành các yếu tố khác nhau, mỗi yếu tố
chi phí chỉ bao gồm những chi phí cùng một nội dung kính tế không phân biệt chi phí
đó phát sinh từ lĩnh vực nào. Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp được chia thành 5 loại:
n Chi phí vật tư mua ngoài là toàn bộ giá trị vật tư mua ngoài dùng vào hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên vật liệu chính, vật liệu
phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế…
o Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương là toàn bộ các khoản tiền
lương, tiền công doanh nghiệp phải trả cho những người tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh; các khoản chi phí trích nộp theo lương như chi phí BHXH, BHYT,
KPCĐ mà doanh nghiệp phải nộp trong kỳ.
p Chi phí khấu hao tài sản cố định là toàn bộ số tiền khấu hao các loại tài sản
cố định trích trong kỳ.
q Chi phí dịch vụ mua ngoài là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải trả cho các
dịch vụ đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ do các đơn vị khác ở
bên ngoài cung cấp như: dịch vụ điện, nước…
r Chi phí khác bằng tiền là các khoản chi phí bằng tiền ngoài các khoản đã
nêu trên.
Phân loại các chi phí của doanh nghiệp thành các yếu tố chi phí như trên có ý
nghĩa lớn trong quản lý chi phí. Nó cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng loại chi phí để
phân tích đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất theo yếu tố ở Bảng
thuyết minh báo cáo tài chính, cung cấp tài liệu tham khảo để lập dự toán chi phí sản
xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn đầu tư
cho kỳ sau.
8
Hai là, phân loại chi phí sản xuất theo mục đích công dụng của chi phí [11].
Cách phân loại này dựa vào mục đích công dụng của chi phí nơi phát sinh chi
phí và nơi gánh chịu chi phí để phân chia chi phí sản xuất thành các khoản mục khác
nhau. Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất được chia thành:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên
liệu, dụng cụ sản xuất trực tiếp dùng vào việc chế tạo sản phẩm hàng hóa dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp là toàn bộ các khoản tiền lương, tiền công, các
khoản phụ cấp có tính chất lương, các khoản chi BHXH, BHYT, KPCĐ của nhân công
trực tiếp sản xuất trong doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất chung là các khoản chi phí được sử dụng ở các phân
xưởng, bộ phận kinh doanh như: Tiền lương và phụ cấp lương của quản đốc, nhân viên
phân xưởng, chi phí tài sản cố định thuộc phạm vi phân xưởng, chi phí vât liệu, công
cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền phát sinh ỏ phạm vi phân
xưởng, bộ phận sản xuất.
Chi phí bán hàng bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ như: Chi phí tiền lương, phụ cấp trả lương cho công nhân bán
hàng, tiếp thị, vận chuyển, bảo quản, các chi phí khấu hao phương tiện vận tải, chi phí
vật liệu, bao bì, các chi phí dịch vụ mua ngoài, các chi phí bằng tiền khác (như: Bảo
hành sản phẩm, quảng cáo).
Chi phí quản lý doanh nghiệp là các chi phí cho bộ máy quản lý doanh
nghiệp, các chi phí liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như: Khấu hao tài
sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lý, chi phí công cụ dụng cụ, các chi phí khác
phát sinh trong phạm vi toàn doanh nghiệp (như: Tiền lương và các khoản phụ cấp
lương trả cho Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, nhân viên các phòng ban quản lý), chi
phí vật liệu, đồ dùng văn phòng, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua
ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp. Các khoản chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn
kho, dự phòng nợ phải thu khó đòi, công tác phí, các chi phí giao dịch, đối ngoại…
9
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp có thể tập hợp chi phí và tính giá
thành cho từng loại sản phẩm, quản lý chi phí tại địa điểm phát sinh để khai thác khả
năng hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Ba là, phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất
kinh doanh [11].
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được
chia thành hai loại: Chi phí cố định (Định phí) và chi phí biến đổi (Biến phí).
) Chi phí cố định (Định phí): Là các chi phí không thay đổi (hoặc thay đổi
không đáng kể) theo sự thay đổi quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi
phí thuộc loại này bao gồm: Chi phí khấu hao tài sản cố định (theo thời gian); chi phí
tiền lương trả cho cán bộ, nhân viên quản lý, chuyên gia, lãi tiền vay phải trả, chi phí
cho thuê tài chính, văn phòng [11].
) Chi phí biến đổi (Biến phí): Là các chi phí thay đổi trực tiếp theo sự thay
đổi của quy mô sản xuất, chi phí thuộc loại này bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu, chi
phí tiền lương công nhân trực tiếp, chi phí hoa hồng bán hàng, chi phí dịch vụ được
cung cấp (như: Tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại…) [11].
Do đặc điểm của từng loại chi phí nêu trên khi quy mô sản xuất kinh doanh
càng tăng thì chi phí cố định tính cho một đơn vị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ càng
giảm. Riêng đối với chi phí biến đổi, việc tăng hoặc giảm hay không thay đổi khi tính
chi phí này cho một đơn vị sản phẩm còn phụ thuộc vào tương quan biến đổi giữa quy
mô sản xuất kinh doanh và tổng chi phí biến đổi của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được xu hướng biến đổi của
từng loại chi phí theo quy mô kinh doanh, từ đó doanh nghiệp có thể xác định được
sản lượng hoà vốn cũng như quy mô kinh doanh hợp lý để đạt được hiệu quả cao nhất.
1.1.2, Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
1.1.2.1, Khái niệm và ý nghĩa của giá thành sản phẩm.
Trong sản xuất kinh doanh chí phí mới là mặt thứ nhất thể hiện sự hao phí đã chi
ra. Để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, chi phí phải được xem
10
xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản trong quá trình sản
xuất. Đó là, kết quả sản xuất thu được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, quan hệ so sánh
đó đã hình thành nên chỉ tiêu “Giá thành sản phẩm” [11].
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp đã
bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm hay một khối lượng
sản phẩm nhất định [11].
Có nhiều loại doanh nghiệp sản xuất ra cùng sản phẩm nhưng do trình độ quản lý
khác nhau, giá thành sản phẩm đó sẽ khác nhau. Chính vì vậy mà giá thành sản phẩm
mang tính cá biệt đối với từng doanh nghiệp.
Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, giá thành sản phẩm có một ý
nghĩa hết sức quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
¾ Giá thành là thước đo mức hao phí về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, là căn cứ
để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn lựa chọn sản xuất một loại sản phẩm
nào đó, doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhu cầu thị trường, gía cả thị trường và
mức hao phí sản xuất loại sản phẩm đó. Trên cơ sở như vậy mới xác định được hiệu
quả sản xuất loại sản phẩm đó để lựa chọn và quyết định khối lượng sản xuất tối ưu
[11].
¾ Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả các biện pháp tổ chức, kỹ thuật.
Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh nghiệp có thể xem xét tình
hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản phẩm, phát hiện và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến
phát sinh chi phí không hợp lý để có biện pháp loại trừ [11].
¾ Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng chính sách
giá cả đối với từng loại sản phẩm, tạo cho doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh trên thị
trường [11].
1.1.2.2, Các loại giá thành sản phẩm [5]
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá thành sản xuất
sản phẩm và giá thành toàn bộ.
11
Giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ bao gồm:
# Chi phí vật tư trực tiếp.
# Chi phí nhân công trực tiếp.
# Chi phí sản xuất chung.
Giá thành toàn bộ sản phẩm đã tiêu thụ gồm toàn bộ chi phí liên quan đến quá
trình sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm nhất định gồm:
# Giá thành sản xuất của sản phẩm
# Chi phí bán hàng
# Chi phí quản lý doanh nghiệp
Đứng trên góc độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp còn được
chia thành:
¾ Giá thành kế hoạch: Việc xác định giá thành kế hoạch được xây dựng trước
khi bước vào chu kỳ sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch được tính trên cơ
sở chi phí sản xuất kế hoạch và được xem là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là
cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, kế hoạch hạ giá
thành của doanh nghiệp [5].
¾ Giá thành định mức: Được thực hiện trước khi tiến hành sản xuất chế tạo
sản phẩm. Giá thành định mức được tính trên cơ sở các chi phí hiện hành và chi phí
đơn vị sản phẩm. Nó là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thước đo chính
xác để xác định hiệu quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất giúp cho việc
đánh gía đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ND_BAO_CAO_NCKH.pdf
- BAI_BAO_NCKH.pdf