Đề tài Một số giải pháp cho vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam

Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tổ chức ở Thái Lan năm 1993: Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu căn bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc: • Vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận. • Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, 2000/2001: về mặt phúc lợi nghèo là khốn cùng, đói, không có nhà cửa, ốm đau không ai chăm sóc, mù chữ không được đến trường, dễ bị tổn thương, thường bị các thể chế xã hội của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt bên lề xã hội nên không có tiếng nói và quyền lực trong các thể chế đó. • Tổng quát: Người nghèo có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư, không được thừa hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người, thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.

doc28 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2730 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp cho vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIỚI THIỆU K ể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO cùng với những chính sách tích cực cải thiện nền kinh tế của Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đã có rất nhiều chuyển biến. Chất lượng cuộc sống con người Việt Nam đã được nâng cao rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người cũng được tăng lên đáng kể. Nhưng bên cạnh đó, sự phân hóa, cách biệt giàu nghèo vẫn còn tồn tại trong xã hội Việt Nam và có xu hướng ngày càng sâu sắc hơn. Trong khi cuộc sống con người ở các thành phố lớn đang phát triển một cách đều đặn thì vẫn còn một số các khu vực,các tỉnh đang thiếu thốn việc làm, thu nhập bình quân đầu người vẫn còn thấp, không đủ các điều kiện tối thiểu để đáp ứng nhu cầu cuộc sống, dẫn đến tình trạng đói nghèo xảy ra nơi đây, trong đó nổi bật là khu vực miền Trung. Đây là một vấn đề cấp bách đang cần được nhà nước đề ra các biện pháp, chính sách để giải quyết kịp thời nhằm cân bằng được chất lượng cuộc sống giữa mọi người, xóa bỏ ranh giới cách biệt giàu nghèo, cùng nâng cao và hoàn thiện hơn cuộc sống của con người Việt Nam. I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO: 1. Định nghĩa: Nghèo - tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện: thu nhập hạn chế, thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản bảo đảm tiêu dùng những lúc khó khăn, dễ tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và các khó khăn đến người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định,… Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tổ chức ở Thái Lan năm 1993: Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu căn bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc: Vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, 2000/2001: về mặt phúc lợi nghèo là khốn cùng, đói, không có nhà cửa, ốm đau không ai chăm sóc, mù chữ không được đến trường, dễ bị tổn thương, thường bị các thể chế xã hội của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt bên lề xã hội nên không có tiếng nói và quyền lực trong các thể chế đó. Tổng quát: Người nghèo có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư, không được thừa hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người, thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. 2. Chuẩn nghèo: Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại Copenhagen, Đan Mạch, 1995: “Người nghèo là tất cả ai thu nhập thấp hơn 1 USD một ngày cho mỗi người, số tiền được xem như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”. Năm 2009, Việt Nam chính thức áp dụng chuẩn nghèo mới: “ Hộ nông dân có thu nhập bình quân đầu người từ 300 000 VNĐ/tháng trở xuống, hộ thành thị từ 390 000 VNĐ/tháng trở xuống sẽ được xếp vào diện hộ nghèo, được hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước”. II. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TRUNG BỘ: 1. Vị trí địa lý Theo cách phân chia địa lý kinh tế của nhà nước Việt Nam thì Trung Bộ giáp các tỉnh: - Phía bắc giáp các tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình và Sơn La của vùng Bắc Bộ. - Phía nam giáp các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu của vùng Nam Bộ. - Phía Đông là Biển Đông, trải dài hàng nghìn kilômét. - Phía Tây giáp biên giới với 2 nước Lào và Campuchia. - Dọc theo miền Trung là đường bờ biển khúc khuỷu với những vũng, vịnh và các đảo ven bờ. - Hiện nay, miền Trung được phân chia thành 2 tiểu vùng chính, đó là: ( Vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam, có 6 tỉnh theo thứ tự bắc - nam: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. ( Vùng Nam Trung Bộ Việt Nam được chia thành: ( Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: gồm 8 tỉnh thành theo thứ tự Bắc - Nam: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. ( Tây Nguyên, gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng. 2. Khí hậu Vùng Bắc Trung Bộ là vùng Bắc đèo Hải Vân đôi khi có thời tiết lạnh và có những thời kỳ khô nóng do gió Foehn gây nên. Mùa đông, do hình thế vùng này nên vì vậy, vùng này vẫn bị ảnh hưởng bởi thời tiết lạnh do gió mùa Đông Bắc mang đến và thường kèm theo mưa nhiều (đặc biệt là tại Thừa Thiên - Huế). Mùa Hè, khi gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh thổi từ vịnh Thái Lan qua vùng lục địa rộng lớn đến dãy Trường Sơn thì bị trút hết mưa xuống sườn Tây Trường Sơn nhưng vẫn tiếp tục vượt qua dãy núi để thổi sang vùng này. Lúc này do không còn hơi nước nên gió mùa Tây Nam gây ra thời tiết khô nóng (có khi tới > 40 °C, độ ẩm chỉ còn 50 ÷ 60), gió này gọi là gió Foehn. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ là vùng đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ phía Nam đèo Hải Vân có khí hậu nóng quanh năm. Vào mùa hè, trong khi cả nước có lượng mưa lớn nhất, thì miền khí hậu này lại đang ở thời kỳ khô hạn nhất. 3. Dân số Theo số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục thống kê thì dân số miền Trung năm 2008 vào khoảng 24824,4 nghìn người, chiếm 28,8% tổng dân số cả nước năm 2008 và tăng 0,94% so với năm 2007. Như vậy, so với 3 vùng của cả nước thì dân số miền Trung xếp thứ 3 cả nước sau miền Bắc là 30862,6 nghìn người và miền Nam là 30523,8 nghìn người. Nhìn chung qua các năm từ năm 1998 đến 2008 thì dân số miền Trung tăng tương đối đều và ổn định, chưa có sự dao động nào đáng kể về tình hình dân số miền Trung trong những năm gần đây. Hình II.1: Dân số Trung Bộ thống kê từ năm 1998 - 2008 III. THỰC TRẠNG So với tình hình kinh tế cả nước đang được đánh giá có nhiều tiến triển lạc quan thì bên cạnh vẫn còn tồn tại một số vấn đề chưa được giải quyết triệt để, như tình trạng xóa đói giảm nghèo ở các khu vực khó khăn mà nổi bật hơn cả là khu vực miền Trung. So với hai tỉnh còn lại trong cả nước là miền Bắc và miền Nam thì miền Trung luôn được đánh giá là vùng đất có nhiều triển vọng với nguồn tài nguyên từ biển được thiên nhiên ban tặng. Tình hình kinh tế miền Trung trong những năm gần đây cũng có nhiều chuyển biến theo hướng tốt hơn. Ví dụ: trong năm 2008 thì tổng số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào miền Trung là 70 dự án với tổng số vốn đầu tư là 33107.5 tỷ đồng, chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Có thể kể đến những dự án lớn đang được thi công tại miền Trung như nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy lọc dầu Vũng Rô (Anh – Nga 1,7 tỉ USD) tại Phú Yên, khu phức hợp resort cao cấp của Singapore (875 triệu USD), nhà máy đóng tàu biển STX Vina của Hàn Quốc (500 triệu USD) tại Thừa Thiên Huế… đã nâng quy mô vốn đầu tư bình quân của khu vực trong năm 2008 lên 139,7 triệu USD/dự án, gấp gần 2,5 lần so với quy mô của cả nước (56,75 triệu USD/dự án). Một số tỉnh miền Trung được đánh giá là đã có nhiều chuyển biến hơn so với các năm trước với điển hình là Đà Nẵng, thành phố đứng đầu nền kinh tế miền Trung có GDP đạt tốc độ tăng trưởng 11% so với chỉ tiêu đặt ra là 13 - 13,5%; Thừa Thiên- Huế, trong năm 2008 đã thu hút được 13 dự án đầu tư của nước ngoài với tổng nguồn vốn đầu tư là 1.097 triệu USD, xếp thứ 10/64 tỉnh thành cả nước về thu hút vốn FDI lớn nhất toàn quốc... Đó là một số tỉnh với diễn biến tình hình kinh tế khá nổi bật trong năm 2008 vừa qua.  Hình III.1: Tổng vốn FDI phân bổ theo địa phương Bên cạnh đó, vẫn còn một số các tỉnh được xem là khó khăn thuộc vào bậc nhất miền Trung như Quảng Bình, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Bình Định… Do đất rộng nên người dân chủ yếu làm nông, tự cung tự cấp với tập quán sản xuất lạc hậu nên thu nhập bình quân đầu người chỉ từ 2,1 - 4,3 triệu đồng/năm. Ngay cả mức độ nghèo khổ cũng có sự chênh lệch đáng kể; thu nhập bình quân của nhóm hộ nghèo ở các huyện này chỉ vỏn vẹn khoảng 140 nghìn đồng/người/tháng. Miền Trung đang được đánh giá là có mức độ tăng trưởng khá cao so với cả nước nhưng tỷ lệ hộ nghèo ở đây vẫn chưa được cải thiện nhiều. IV. NGUYÊN NHÂN: Có nhiều lý do làm cho tình hình nghèo đói ở các tỉnh này chưa được cải thiện một cách hiệu quả như thời tiết khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống con người, nguồn nhân lực thiếu tay nghề, trình độ nhận thức còn thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, hệ thống giao thông chưa được triển khai một cách đáng kể, sự thiếu liên kết giữa các vùng miền, kéo theo sự thiếu bền vững làm cho các khu vực này có nơi nguy cơ tái đói nghèo cao. 1. Điều kiện khí hậu: Vùng duyên hải miền trung với tổng diện tích 9.589,5 nghìn ha, là vùng đất duy nhất của nước ta có tất cả các tỉnh đều giáp biển ở phía đông. Phía tây của vùng là rừng và đồi núi thấp dần ra phía biển , chia cắt đồng bằng thành những dải nhỏ hẹp. Với vị trí địa lý đặc biệt như vậy, vùng duyên hải miền trung là vùng có nhiều thế mạnh về nông – lâm – ngư nghiệp. Là vùng có thế mạnh về sản xuất nông lâm thủy hải sản, nhưng chủ yếu vẫn là trồng trọt. Tính đến nay, giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng là 23559,5 tỷ VNĐ, chiếm tỉ lệ 15.04% so với tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước. Về chăn nuôi, vùng đồi núi thấp ở phía tây và diện tích rộng, thuận lợi cho việc phát triển ngành chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là chăn nuôi bò với số lượng 2,619 triệu con (2008), chiếm tỉ lệ 41,32% số lượng bò cả nước. Về lâm nghiệp, vùng duyên hải miền trung có diện tích rừng lớn thứ hai cả nước với 4497,4 nghìn ha (2008), chiếm 34,28%. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý (táu, lim, sến, …) và nhiều lâm sản, động vật quý hiếm có giá trị. Miền Trung có thế mạnh về sản xuất gỗ với sản lượng gỗ khai thác được vào năm 2008 lên tới 1057,2 nghìn m3 gỗ ( chiếm tỉ lệ 29,68%) và giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt khỏang 1916 tỷ đồng vào năm 2008 ( chiếm tỷ lệ 28,38%) chỉ đứng sau khu vực trung du và miền núi phía bắc. Nhưng bên cạnh đó, nạn chặt phá rừng bừa bãi cũng đang diễn ra nơi đây, làm tổn thất không nhỏ lượng gỗ khai thác hàng năm. Chỉ tính riêng năm 2008, miền Trung đã có 900,5 hecta rừng bị chặt phá. Về ngư nghiệp, với lợi thế đường bờ biển dài, nhiều bãi biển đẹp như Sầm Sơn, Nha Trang,…, là vùng đang phát triển rất nhanh về du lịch biển, thu hút được số lượng lớn khách du lịch đến tham quan hàng năm. Chỉ tính 6 tháng đầu năm 2009, lượng khách du lịch đến miền Trung là khoảng 8 triệu lượt, trong đó du khách nước ngoài chiếm 1,5 triệu lượt. Theo đánh giá thì lượng khách này tiếp tục tăng trong thời gian tới. Tuy nhiên, do ảnh hửong từ thiên tai nên vào khoảng thời gian tháng 9, 10, 11, 12, miền Trung phải chấp nhận cảnh các bãi biển vắng khách, các khu du lịch thì phải chấp nhận huề vốn, làm giảm thu nhập và phải cắt giảm nhân công gây thất nghiệp cho một bộ phận lao động. Phần lớn các tỉnh đều giáp biển nên có nhiều bãi tôm bãi cá với nhiều loại cá quý hiếm cho ra sản lượng lớn. Số liệu thống kê năm 2008 cho thấy, giá trị sản xuất thuỷ sản đạt 8897,6 tỷ VNĐ, chiếm tỉ lệ 17,77%. đứng thứ hai cả nước sau vùng đồng bằng sông Cửu Long là 33891,1 tỷ VNĐ. Về trồng trọt, đất nông nghiệp ở đồng bằng chủ yếu là đất phù sa, ngoài ra còn có đất feralit ở vùng trung du và một số vùng đất badan quy mô nhỏ, thích hợp để trồng cây công nghiệp (Ví dụ như: hồ tiêu, cao su, cà phê, thuốc lá…) và trồng lúa. Tuy nhiên, sản lượng lúa thu hoạch được lại xếp ở vị trí thứ ba với tổng sản lượng là 6.125,9 nghìn tấn (2008), sau đồng bằng sông cửu long (20.681,6 nghìn tấn – 2008) và đồng bằng sông Hồng (6.776 nghìn tấn – 2008). Sở dĩ có hiện tượng này là vì phần lớn các giống lúa chủ lực hiện đang gieo trồng trong vùng là những giống có nguy cơ nhiễm sâu bệnh cao cùng với sự bùng phát của các dịch sâu bệnh (rầy nâu, vàng lá…) đang lan trên diện rộng các khu vực trồng lúa của miền Trung càng làm cho năng suất lúa có nguy cơ ngày càng giảm. Trong đó, khí hậu ở vùng duyên hải miền trung là nguyên nhân chủ yếu, tác động lớn vào việc giảm năng suất lúa và cây trồng. Miền Trung phải gánh chịu khí hậu khắc nghiệt hơn so với các vùng miền khác của đất nước. Địa hình duyên hải miền trung bị chia cắt mạnh, gây ảnh hưởng nhiều đến điều kiện khí hậu. Hàng năm, vào mùa hè, vùng duyên hải miền trung có gió tây khô nóng, làm nhiệt độ tăng cao, làm giảm lượng mưa trong mùa hè. Thêm vào đó, do địa thế khu vực dốc, diện tích lưu vực nhỏ, không dài, khả năng điều tiết nước kém, không thể giữ nước đủ lâu để cung cấp cho vùng đồng bằng, góp phần gây nên hiện tượng hạn hán, làm cho cây trồng chết héo. Vào mùa mưa, vùng này liên tục hứng chịu những cơn bão lớn từ biển Đông đổ vào, rừng do bị khai thác quá mức không thể điều tiết lượng nước mưa kịp thời nên hình thành hiện tượng lũ quét làm ngập lụt khu vực đồng bằng. gây ra những hậu quả nặng nề như mất mùa, giảm năng suất cây trồng. Người dân nơi đây phải liên tục gánh chịu những thiệt hại nặng nề từ thiên nhiên, hết hạn hán lại đến mưa lũ, khiến cho người dân quanh năm tổn thất nhiều tiền của và sức lao động, cộng thêm việc thất thu do cây trồng bệnh tật, lũ quét, cuốn trôi hết thành quả lao động của họ. Theo thống kê sơ bộ thì trung bình hàng năm, thiệt hại do thiên tai bão lụt gây ra cho miền Trung ước tính khoảng 155 tỉ VNĐ/năm, trong đó ngập úng chiếm 120 000 hecta lúa làm tổn thất 149 000 tấn thóc. Đối với ngư nghiệp thì bão lũ cũng gây ra tổn thất không nhỏ cho miền Trung. Hàng năm, mỗi khi bão đến thì người dân nơi đây không thể ra khơi, hoặc các tàu đánh cá ngoài khơi do phải đi trú bão nên không thể trở về đúng kì hạn, kéo dài thời gian bảo quản thủy hải sản, làm giảm chất lượng sản phẩm đánh bắt. Ngoài ra, bão lũ còn làm hư hại các công trình nuôi trồng tủy sản như: các bè cá nuôi nước mặn, các cánh đồng muối bị ngập nước… Các ngư cụ, tàu bè cũng chịu tổn thất, hư hại nặng nề. Ước tính trung bình hàng năm, tổng số thiệt hại do thiên tai gây ra cho ngư nghiệp lên đến hàng tỉ đồng. Mặc dù có các thế mạnh về nông lâm ngư nghiệp, nhưng duyên hải miền trung lại là vùng có khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra mưa bão, lũ lụt, hạn hán. Với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thiên tai diễn ra quanh năm như vậy, vùng duyên hải miền trung mặc dù có những tiềm năng hết sức thuận lợi để xây dựng nền kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp nhưng cũng không thể phát triển một cách bền vững và liên tục. Thiên tai hằng năm gây nên những hậu quả tàn khốc cho cả người và của, làm chậm sự phát triển của vùng, tàn phá cơ sở vật chất của nhà nước và nhân dân. Ví dụ: Trong năm 2007, Quảng Ngãi xin trợ giúp 2 000 tấn gạo cứu đói, 1 900 lúc giống và 200 tỷ VNĐ. Quảng Nam đề nghị hỗ trợ 3 000 tấn gạo, 3 000 tấn lúa giống và 150 tỷ VNĐ. Mỗi năm nhà nước lại tốn hàng ngàn tỉ đồng nhằm khắc phục các hậu quả do thiên tai gây ra, giúp người dân ở những vùng bị thiên tai tàn phá xây dựng lại cuộc sống. Từ đó khiến cho chính sách xóa đói giảm nghèo của nhà nước bị vô hiệu hóa vì chỉ cần một cơn bão hay một trận lụt lớn cũng làm tiêu tan toàn bộ thành quả đã xây dựng được. 2. Cơ sở hạ tầng Duyên hải miền trung với đặc điểm phong phú về tài nguyên khoáng sản, có đường bờ biển dài, nhiều vịnh nước sâu, là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như Lăng Cô, bãi biển Đà Nẵng, Hội An, vịnh Nha Trang… đang là vùng đầy tiềm năng, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào. Nắm được các điều kiện thuận lợi này, chính phủ và các địa phương trong vùng đã tích cực tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến đầu tư cùng các chính sách ưu đãi nhằm phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ tại địa phương mình. Vì thế hiện đang có nhiều công ty trong và ngoài nước tham gia đầu tư góp vốn vào các dự án tại vùng này. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2007 lượng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (vốn FDI) được cấp phép tại vùng duyên hải Miền Trung đạt 3,686 triệu USD, chỉ chiếm 17,26% tổng vốn FDI của cả nước. Nhưng đến năm 2008, lượng vốn FDI tăng đột biến, lên đến 33107,5 triệu USD, chiếm đến 51,49% tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam trong cùng năm. Thành công nhất có thể nói là KKT Dung Quất với 147 dự án đăng ký, tổng vốn khoảng 10 tỷ USD. Mặc dù bị ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng 9 tháng đầu năm 2009, KKT Dung Quất đã thu hút 12 dự án, với tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng trên 6 nghìn tỷ đồng. Các số liệu nói trên chứng tỏ hướng đi của các địa phương thuộc vùng Duyên hải Miền Trung đang là hướng đi đúng đắn, có hiệu quả. Về hạ tầng đường bộ và đường sắt ,vài năm trước đây, đường bộ và đường sắt của khu vực này do thiếu sự đầu tư nên có chất lượng không tốt, bị xuống cấp nghiêm trọng. Mặt đường nhiều nơi có nhiều ổ gà ổ voi, lớp tráng nhựa đường bị bong tróc, thêm vào đó là tình trạng nhiều cây cầu trên các tuyến đường của vùng đã cũ, có trọng tải thấp, bị xuống cấp theo thời gian cũng gây nguy hiểm cho các phương tiện giao thông di chuyển trên tuyến đường này, từ đó làm giảm năng lực vận tải trong nội vùng và với các vùng miền khác của đất nước. Bên cạnh , hạ tầng giao thông phát triển vẫn chưa tương xứng với sự phát triển về kinh tế, các công trình bệnh viện, trường học, khu vui chơi giải trí chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân địa phương và các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Các khu vui chơi giải trí tuy được chú ý đầu tư xuống cả các quận huyện nhưng lại không có cơ chế giám sát, quản lý thỏa đáng gây nên tình trạng trang thiết bị hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng, điển hình như ở thôn Dương Sơn, xã Hòa Tiến (huyện Hòa Vang), phường An Hải Tây, quận Sơn Trà thuộc thành phố Đà Nẵng, các công trình vui chơi giải trí tuy được đầu tư xây dựng với kinh phí và quy mô tương đối lớn nhưng sau đó lại bị bỏ hoang, xuống cấp, không có ai quản lý, với nghịch cảnh đầu tư nhiều nhưng hiệu quả không được bao nhiêu, người dân ở các tỉnh thành Duyên Hải Miền Trung vẫn phải chịu thiệt do cơ chế quản lý lỏng lẻo của địa phương. Số bệnh viện của vùng khá nhiều, có tất cả 213 bệnh viện trực thuộc Bộ Y Tế, nhưng chỉ có bệnh viện Đa Khoa Thừa Thiên – Huế là bệnh viện lớn, có khả năng xử lý các ca bệnh phức tạp, nhưng nhìn chung trình độ y bác sĩ vẫn chưa bằng ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nên việc khám chữa bệnh cũng phần nào bị hạn chế. Hơn nữa, các bệnh viện đều nằm trong những vùng đông dân cư trong khi các khu công nghiệp, khu kinh tế đa số được địa phương đặt tại những vùng dân cư thưa thớt nhằm giảm thiểu chi phí đền bù giải tỏa nên gây hạn chế trong việc cung cấp dịch vụ y tế cao cấp cho các nhà đầu tư, công nhân làm việc tại các khu vực này. Ngoài các hạn chế nói trên, thiên tai lũ lụt hằng năm đã góp phần làm chậm sự phát triển cơ sở hạ tầng của vùng Duyên hải Miền Trung. Mỗi năm có bão tố, lũ lụt, thiệt hại về vật chất là rất lớn. Các công trình đường giao thông, đường sắt, cầu cống, bệnh viện, trường học… bị tàn phá nghiêm trọng. Điển hình như đợt bão lũ vừa qua, cơ sở hạ tầng của toàn vùng bị hư hại nhiều. Giao thông trong nội bộ vùng và với các vùng khác bị tê liệt hoàn toàn. Nhiều tuyến đường bộ như quốc lộ 19 đoạn nối Cảng Quy Nhơn với các tỉnh Tây Nguyên bị sạt lở, cầu cống bị cuốn trôi khiến tình trạng kẹt xa liên tục xảy ra. Quốc lộ 1A đoạn đi qua các tỉnh thành chịu sự tàn phá của thiên tai cũng gặp fải tình trạng tương tự. Trên tuyến đường sắt Bắc – Nam nhiều đoạn cũng bị lũ cuốn trôi khiến cho tuyến đường này cũng gặp tình trạng tê liệt tạm thời không thế hoạt động. Hệ thống bệnh viện, trường học cũng gặp cảnh tương tự khi nhiều nơi bị lũ cuốn làm hư hại nặng về cơ sở vật chất, nhiều công trình bị sập gây khó khăn cho công tác cứu trợ cứu nạn. Qua đó có thể thấy tuy được chú trọng đầu tư nhưng Duyên hải Miền Trung lại là vùng có cơ sở hạ tầng kém bền vững nhất nước. Điều đó đặt ra vấn đề cho Nhà Nước và lãnh đạo các tỉnh thành phải có các biện pháp tích cực hơn nhằm đủ khả năng chống chọi được với thiên tai đang có xu hướng gia tăng về số lượng và sức mạnh như hiện nay, bảo vệ an toàn cho người dân và khiến cho các nhà đầu tư an tâm khi đầu tư vào khu vực này của đất nước. 3. Sự thiếu liên kết trong vùng Ngoài ra, một trong những hạn chế khác ảnh hưởng đến tình hình kinh tế nói chung cũng như cuộc sống người dân Trung bộ nơi đây đó chính là các tỉnh miền Trung chưa thực sự đồng nhất và liên kết với nhau trong nhiều lĩnh vực là nguyên nhân chủ yếu làm cho các tỉnh
Luận văn liên quan