Hơn bốn nghìn năm văn hiến, lịch sử đất nước ta trải qua nhiều thăng trầm biến cố. Nhiều kẻ thù mưu toan đồng hoá văn hoá Việt Nam để hòng đô hộ nước ta lâu dài. Nhưng nền văn hoá Việt Nam không những được bảo vệ, giữ gìn mà cho ông ta còn biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá của các nước khác làm giàu thêm bản sắc văn hoá Việt Nam. Có được một nền văn hoá truyền thống độc đáo, giàu bản sắc như ngày nay là cả một quá trình lao động, sáng tạo và đấu tranh bền bỉ của dân tộc, vừa xây những cái đẹp, cái văn minh, cái tiến bộ, vừa chống cái xấu, cái lạc hậu, phản động, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bài trừ văn hoá lai căng, vọng ngoại. Quả thật để giữ gìn và phát huy được "cái hồn" của văn hoá dân tộc quả là một cuộc đấu tranh gay gắt. Cuộc đấu tranh đó đã trở thành sống còn, bởi lẽ một dân tộc đánh mất bản sắc dân tộc của văn hoá là dân tộc đó tự đánh mất chính mình.
Đất nước ta mới từ bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa có sự chuẩn bị đầy đủ. Kinh tế thị trường với văn hoá truyền thống đem lại cái được, cái mất, cái thoát khỏi, cái đang bị nhiễm. Đối với du lịch Việt Nam vấn đề khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong sự phát triển du lịch, trong mấy năm gần đây rất được Đảng và Nhà nước quan tâm. Mong muốn của du khách khi thực hiện chuyến du lịch không đơn thuần chỉ ngắm nhìn những danh lam thắng cảnh những di tích cổ, nghe những huyền thoại về đất nước con người thông qua những di tích lịch sử mà còn là nhu cầu hiểu biết về phong tục tập quán, nét sinh hoạt văn hoá truyền thống dân gian cũng như đời sống hiện tại đòi hỏi người làm công tác du lịch phải đáp ứng ngày càng lớn không chỉ bề rộng mà cả bề sâu, phải đưa ra được những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm đà bản sắc văn hoá Việt Nam để thu hút hơn khách du lịch.
Ở Việt Nam, vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc đang là một vấn đề trao đổi tìm kiếm lời giải đáp. Vì vậy em chọn đề tài: Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển du lịch VN
Bài viết chia làm 3 phần:
Chương I: Bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Chương II: Khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển du lịch
Việt Nam hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác bản sắc văn hoá
dân tộc trong phát triển du lịch Việt Nam.
Bài viết này chắc chắn sẽ không khỏi sai sót. Mong thầy cô giúp đỡ và bổ sung thêm.
26 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số Giải pháp cơ bản nhằm khai thác bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển du lịch Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Hơn bốn nghìn năm văn hiến, lịch sử đất nước ta trải qua nhiều thăng trầm biến cố. Nhiều kẻ thù mưu toan đồng hoá văn hoá Việt Nam để hòng đô hộ nước ta lâu dài. Nhưng nền văn hoá Việt Nam không những được bảo vệ, giữ gìn mà cho ông ta còn biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá của các nước khác làm giàu thêm bản sắc văn hoá Việt Nam. Có được một nền văn hoá truyền thống độc đáo, giàu bản sắc như ngày nay là cả một quá trình lao động, sáng tạo và đấu tranh bền bỉ của dân tộc, vừa xây những cái đẹp, cái văn minh, cái tiến bộ, vừa chống cái xấu, cái lạc hậu, phản động, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bài trừ văn hoá lai căng, vọng ngoại. Quả thật để giữ gìn và phát huy được "cái hồn" của văn hoá dân tộc quả là một cuộc đấu tranh gay gắt. Cuộc đấu tranh đó đã trở thành sống còn, bởi lẽ một dân tộc đánh mất bản sắc dân tộc của văn hoá là dân tộc đó tự đánh mất chính mình.
Đất nước ta mới từ bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa có sự chuẩn bị đầy đủ. Kinh tế thị trường với văn hoá truyền thống đem lại cái được, cái mất, cái thoát khỏi, cái đang bị nhiễm. Đối với du lịch Việt Nam vấn đề khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong sự phát triển du lịch, trong mấy năm gần đây rất được Đảng và Nhà nước quan tâm. Mong muốn của du khách khi thực hiện chuyến du lịch không đơn thuần chỉ ngắm nhìn những danh lam thắng cảnh những di tích cổ, nghe những huyền thoại về đất nước con người thông qua những di tích lịch sử mà còn là nhu cầu hiểu biết về phong tục tập quán, nét sinh hoạt văn hoá truyền thống dân gian cũng như đời sống hiện tại đòi hỏi người làm công tác du lịch phải đáp ứng ngày càng lớn không chỉ bề rộng mà cả bề sâu, phải đưa ra được những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm đà bản sắc văn hoá Việt Nam để thu hút hơn khách du lịch.
Ở Việt Nam, vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc đang là một vấn đề trao đổi tìm kiếm lời giải đáp. Vì vậy em chọn đề tài: Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển du lịch VN
Bài viết chia làm 3 phần:
Chương I: Bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Chương II: Khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển du lịch
Việt Nam hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác bản sắc văn hoá
dân tộc trong phát triển du lịch Việt Nam.
Bài viết này chắc chắn sẽ không khỏi sai sót. Mong thầy cô giúp đỡ và bổ sung thêm.
CHƯƠNG I
BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC VIỆT NAM
I-/ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM.
1-/ Bản sắc văn hoá là gì ?
Mỗi tộc người đều có một nền văn hoá với một bản sắc riêng được hình thành trong lịch sử và trong mỗi không gian xã hội cụ thể, dù đó là dân tộc đa số hay dân tộc ít người. Các nền văn hoá đều có giá trị theo chức năng xã hội của nó và các nền văn hoá ấy đã làm phong phú thêm cho nền văn minh nhân loại.
Bản sắc văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần đặc thù riêng của một dân tộc, do họ sáng tạo và tích luỹ trong sự tương tác giữa môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Bản sắc văn hoá riêng của từng dân tộc biểu hiện cụ thể và dễ nhận biết sự riêng biệt này. Người ta có thể nhận biết bản sắc dân tộc qua trang phục truyền thống, cách ăn nói, món ăn, thức uống, cách ứng xử, lễ hội, dân ca, âm nhạc dân gian, kiến trúc, mỹ thuật dân gian... Đây cũng chính là sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Bản sắc văn hoá bao gồm hai loại:
- Các giá trị văn hoá vật thể: là các di tích kiến trúc, các phong cảnh thiên nhiên, ... do vị trí địa lý và con người sáng tạo, tích luỹ. Nó có tính đặc thù riêng do mỗi dân tộc sống ở một lãnh thổ riêng điều kiện tự nhiên khác nhau. Ý tưởng sáng tạo của mỗi dân tộc cũng khác nhau. Ở Việt Nam, kiến trúc chủ yếu là theo kiểu thấp về chiều cao nhưng trải dài trên diện rộng vì thường xuyên chống đỡ với thiên nhiên khắc nghiệt. Các công trình kiến trúc có xu hướng hoà mình vào thiên nhiên ẩn hiện trong thiên nhiên. Ngược lại, ở Mỹ các công trình kiến trúc đồ sộ, to lớn như thách thức với thiên nhiên.
- Các giá trị văn hoá phi vật thể: là âm nhạc, ngôn ngữ, huyền thoại, nghi thức, phong tục tập quán, ... do con người sáng tạo trong quá trình lao động. Âm nhạc Việt Nam dịu dàng tha thiết với cây đàn bầu, ở Tây Âu là những bản nhạc hùng tráng với giàn nhạc gồm nhiều người, nhiều nhạc cụ khác nhau.
Dù vật thể hay phi vật thể thì hai loại hình này gắn bó chặt chẽ với nhau, lồng vào nhau, sự phân biệt chỉ là tương đối. Vì những loại phi vật thể đa số được thể hiện ở những hình thái và trạng thái vật hoá.
2-/ Đặc điểm:
Mỗi dân tộc có một bản sắc văn hoá riêng. Đó là sự sáng tạo và tích luỹ của cả một cộng đồng trong một thời gian dài từ khi xuất hiện những thành viên đầu tiên. Chính vì vậy, nó trở thành bản chất, tính cách của dân tộc truyền từ đời này sang đời khác. Nhưng bản sắc văn hoá dân tộc cũng không phải là yếu tố bất biến. Trải qua nhiều thế hệ, bản sắc văn hoá không ngừng được phát triển và bổ sung những tinh hoa văn hoá của dân tộc khác làm giàu thêm bản sắc văn hoá mình. Mặt khác, nếu không biết giữ gìn thì bản sắc văn hoá của dân tộc đó sẽ dần bị lai tạp. Dân tộc đó sẽ đánh mất bản sắc văn hoá riêng cũng như đánh mất chính mình.
Bản sắc văn hoá dân tộc là niềm tự hào của cả dân tộc. Dù đi đâu, về đâu, trong lòng mỗi người luôn dành cho nó một chỗ quan trọng nhất với cả một tấm lòng thương yêu, trân trọng. Đó là sự hãnh diện với dân tộc khác.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học kỹ thuật, sự bành trướng của một nền kinh tế thương mại đang ngày càng toàn cầu hoá, sự xâm lăng của truyền hình tới mọi hang cùng ngõ hẻm, đã làm thế giới ngày càng trở nên đồng nhất, các dân tộc ngày càng bị mất đi giá trị của riêng mình. Chính trong bối cảnh đó các quốc gia bắt đầu nhìn lại. Họ đang tìm lại chính mình trước khi quá muộn.
II-/ BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC VIỆT NAM
1-/ Văn hoá Việt Nam theo thời gian lịch sử:
1.1 Lớp văn hoá bản địa: (Văn hoá thời tiền sử và thời Văn lang Âu lạc)
Theo những kết quả nghiên cứu của những nhà khảo cổ học Việt Nam thì văn hoá núi Đọ (Thanh Hoá) xuất hiện cách đây 30 vạn năm. Trên đất nước Việt Nam đã có bầy người tối cổ sinh sống (thuộc vào thời đại đồ đá cũ).
Cách đây 1 vạn năm có văn hoá Hoà Bình (Thuộc thời đại đồ đá giữa) con người đã làm nông nghiệp và chọn nghề lúa nước sinh sống. Có thể nói rằng: bản sắc văn hoá nước ta hình thành chính từ thời kỳ trồng lúa nước. Mọi tiềm ẩn trong nền văn hoá nước ta chính từ nghề trồng lúa nước mà ra. Bản sắc văn hoá Việt Nam đến nay vẫn mang đậm nền kinh tế nông nghiệp. Các kiến trúc đình, đền, chùa, lăng tẩm, cung điện đều thấp bé, hoa văn uốn lượn, thể hiện cuộc sống nông nghiệp thường xuyên chống chọi với bão lũ, thiên tai. Các lễ hội truyền thống đều mang đậm tín ngưỡng thờ các vị thần thiên nhiên, mong muốn mưa thuận gió hoà để mùa màng tươi tốt.
Sau đó là thời kỳ đồ đá, đồ đồng. Đặc biệt với trống đồng Đông Sơn, mặt trống gồm 9 vòng tròn đồng tâm chạm khắc trang trí, phản ánh toàn bộ cuộc sống thời Văn Lang - Âu Lạc. Ở giữa có ngôi sao 5 cánh, có thể nói đây là đỉnh cao của mỹ thuật.
1.2 Giai đoạn thời Bắc thuộc
Đây là thời kỳ mất chủ quyền, độc lập lâu nhất ở nước ta (hơn 1000 năm). Nhân dân ta phải chịu nô lệ, quốc hiệu không có, tiếng nói không được công nhận. Nước ta chỉ là một quận của Trung Quốc. Thời kỳ này cũng chính là thời kỳ đấu tranh gay go nhất để bảo tồn bản sắc văn hoá người Việt. Phong kiến Trung Quốc đồng hoá nước ta bằng cách xoá bỏ văn hoá nước ta, thiết lập trên đất nước ta nhiều thể chế chính trị, một phong tục tập quán, các lễ nghi, phương thức canh tác giống như Trung Hoa. Đạo nho, đạo phật cũng vào nước ta và nó ảnh hưởng tới cả những chế độ phong kiến nước ta sau này.
Đây là thời khủng hoảng mạnh nhất của văn hoá nước ta. Bản sắc văn hoá nhiều lúc tưởng như không còn. Nhưng trải qua 1080 Bắc thuộc không những chúng ta giữ gìn được bản sắc riêng của người Việt Nam mà còn tiếp thu những tinh hoa văn hoá ở Trung Hoa biến thành cái của riêng mình. Điều đó khẳng định sự vững chắc của bản sắc văn hoá Việt Nam và tạo đà cho sự phát triển sau này.
1.3 Kỷ nguyên văn hoá Đại Việt:
Trải qua các triều đại phong kiến, bản sắc văn hoá Việt Nam vẫn được giữ vững mà không ngừng phát triển. Nhiều lễ hội dân gian, phong tục tập quán ra đời. Nó khẳng định nét đặc thù riêng của văn hoá Việt Nam.
1.4 Văn hoá Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ:
Dưới thời Pháp thuộc, nước ta bắt đầu tiếp cận với xu thế mới, công - thương nghiệp tương đối phát triển, tiếp thu văn hoá Tây Âu. Do chính sách đồng hoá của Pháp nhiều nét bản sắc riêng của dân tộc, con người Việt Nam bị mất đi thay vào đó những nét hiện đại hương. Ví dụ như trang phục quần áo bà ba, áo tứ thân bị thay vào đó là quần âu, áo sơ mi... Đó là sự lột xác tất yếu để bản sắc dân tộc đứng vững và không ngừng phát triển. Mặc dù có sự thay đổi nhưng cái bản sắc, cái đặc thù riêng của dân tộc vẫn không thay đổi.
1.5 Xây dựng bản sắc văn hoá dưới thời kỳ mới (từ 1945 đến nay)
Dưới thời kỳ mới, cùng với phát triển kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta luôn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đưa nó lên một tầm cao mới, cái nhìn mới và có lý luận riêng. Có những chế độ, chính sách, pháp lệnh rõ ràng để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Dù dưới thời kỳ nào, chế độ nào thì con người Việt Nam vẫn luôn luôn mang đậm nét Việt Nam. Không một ai, và không một cái gì có thể thay đổi được bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Và chắc chắn nó sẽ không ngừng được giữ gìn và phát huy hơn.
2-/ Tổng quan về văn hoá Việt Nam
Nước Việt Nam là tổ quốc của đại gia đình các dân tộc anh em gồm 54 thành phần dân tộc khác nhau. Mỗi dân tộc có một nền văn hoá riêng và chúng ta có 54 nền văn hoá mang bản sắc riêng để hình thành một nền văn hoá Việt Nam thống nhất mang tính đa dạng và nhiều màu sắc phong phú, hoành tráng. Văn hoá: Việt (Kinh) là một nền văn hoá từ Bắc đến Nam, từ Trung Du đến Đồng Bằng, vùng ven biển đến hải đảo. Đó là nền văn hoá đa dạng về chất liệu văn hoá địa phương của nó.
Tất cả những nền văn hoá mang bản sắc riêng của các dân tộc Việt Nam đều xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp truyền thống, từ những phong tục và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chiêm ngưỡng những thần linh giúp dân trong cuộc sống, những thần nhân cứu khổ cứu nạn cho con người và đi đầu trong việc khai phá vùng đất mới để mọi người sinh tồn.
Bản sắc văn hoá dân tộc không mất đi những không phải là phạm trù bất biến, nó có sự chuyển hoá nhất định để phù hợp với nhu cầu xã hội mới đang đặt ra. Nền kinh tế du lịch hiện đại ở nhiều nước, nhất là các nước Châu Á đã sử dụng và khai thác những bản sắc văn hoá dân tộc ở nước mình để tạo thành những hiện thực du lịch trong tổ chức hiện đại của công nghệ và kỹ thuật tiên tiến. Ở Nhật Bản, người ta dễ nhận thấy bản sắc văn hoá Nhật ở các khu phố hiện đại nhất, đặc biệt là trong bao bì của các sản phẩm, hàng hoá, cách trang trí trong các siêu thị, và trung tâm thương mại,....
Bản sắc văn hoá dân tộc là linh hồn của sự phát triển mỗi dân tộc mà chúng ta cần phải đấu tranh giữ gìn và phát huy mạnh mẽ trong mối tương tác với quá trình hiện đại hoá và sự giao lưu, chọn lọc với tất cả các nền văn hoá trên thế giới.
III-/ KHAI THÁC BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM
1-/ Vì sao phải khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển du lịch Việt Nam
Du lịch là một ngành kinh doanh mới được chú trọng phát triển trong mấy thập niên gần đây. Ở Việt Nam cũng vậy, mặc dù nó ra đời từ năm 1945 nhưng nó chỉ thực sự phát triển và hoạt động đúng chức năng của nó từ năm 1992, khi tổng cục Việt Nam được thành lập lại. Tuy vậy, nó lại chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Đây là một ngành kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn. Muốn phát triển được nó ta phải có những chính sách thích hợp.
Muốn phát triển du lịch phải có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng. Phải có những công trình kiến trúc, phong cảnh thiên nhiên to lớn và đẹp thu hút du khách, hoặc phải có những phong tục tập quán, lễ hội... đặc sắc. Nếu chúng ta cũng làm một phép so sánh Việt Nam với các quốc gia phát triển du lịch trên thế giới sẽ thấy: chúng ta không có các kiến trúc hùng vĩ như tháp Ephen ở Pháp, tượng nữ thần tự do ở Mỹ hay Vạn Lý trường thành ở Trung Quốc, ... chúng ta chỉ có một số điểm chú ý như Vịnh Hạ Long, kinh đô Huế, ... được xếp là di sản thế giới. Những cái đó quá ít và nhỏ bé để thu hút khách du lịch. Nhưng bù vào đó chúng ta có một nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc với những phong tục tập quán, lễ hội, dân gian đặc sắc rất lôi cuốn khác. Vậy tại sao mình không khai thác thế mạnh của mình để kinh doanh du lịch.
Mặt khác, xu hướng của thế giới hiện đại bước vào thế kỷ 21 là xu hướng du lịch sang Châu Á với bản sắc văn hoá dân tộc độc đáo.
Vậy, khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển du lịch Việt Nam là điều tất yếu và cần có những định hướng cụ thể.
2-/ Khai thác bản sắc văn hoá trong kinh doanh du lịch ở Việt Nam như thế nào ?
Muốn phát triển du lịch ở nước ta phải đưa ra những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ du lịch đặc trưng riêng. Làm sao khi nói đến du lịch Việt Nam là khách du lịch nhớ tới ngay sản phẩm ấy, cũng như nhắc đến Pháp là nhắc tới tháp Ephen, nhắc tới Hà Lan là nhắc tới hoa hồng, hoa tuy luýp... chúng ta phải lông vào sản phẩm du lịch chúng ta màu sắc hình ảnh, con người Việt Nam, phải tạo được ấn tượng riêng về dân tộc Việt Nam trong khách du lịch. Khách du lịch tới Việt Nam, họ rất thích bộ áo dài, thổ cẩm, tiếng đàn bầu, hoặc nghệ thuật múa rối... Chúng ta phải tạo được những tour du lịch đến các lễ hội dân gian, về các làng quê để khách du lịch tìm hiểu các phong tục tập quán cổ truyền, ... chúng ta cũng phải khai thác lòng mến khách và lịch sử của con người Việt Nam. Những cái đó chính là khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong kinh doanh du lịch Việt Nam.
Khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển du lịch Việt Nam là một vấn đề mới được quan tâm gần đây vì vậy sẽ không tránh khỏi những thắc mắc, sai lệch. Vì vậy đòi hỏi nhà du lịch phải có cách nhận thức đúng đắn vấn đề sao cho khai thác có hiệu quả mà vẫn giữ gìn được bản sắc dân tộc, du khách có thể tìm hiểu được phong tục tập quán truyền thống mà không đi sâu quá vào lợi nhuận trong kinh doanh, gây được ấn tượng đặc biệt cho du khách và để lại trong họ một cảm nhận sâu sắc về văn hoá và con người Việt Nam.
CHƯƠNG II
KHAI THÁC BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM HIỆN NAY
I-/ MỐI QUAN HỆ GIỮA BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM:
1-/ Bản sắc văn hoá dân tộc là mục tiêu khai thác của du lịch Việt Nam:
Nguồn tài nguyên du lịch là điều kiện quyết định để phát triển du lịch. Đối với Việt Nam, một nước du lịch chưa phát triển điều này lại càng quan trọng. Trong các nguồn tài nguyên du lịch Việt Nam, có thể nói bản sắc văn hoá dân tộc là nguồn tài nguyên quan trọng nhất. Bởi vì Việt Nam có một nền văn hoá đặc sắc với 54 dân tộc trong những năm gần đây, Việt Nam đã chú ý đến vấn đề này nhưng hiệu quả chưa cao, chưa đạt được như mong muốn. Bằng chứng cụ thể là số lượng khách đến Việt Nam giảm dần từ 1996. Số lượng khách quay lại không nhiều. Phần lớn là khách công vụ, kinh doanh hoặc thăm lại chiến trường xưa. Đa số khách đều nhận xét là con người và bản sắc văn hoá Việt Nam rất thú vị. Đến với Việt Nam họ như đến một chân trời mới với những điều rất lạ như cái cày, con trâu, đàn bầu, nghệ thuật rối nước,... nhưng tất cả những cái đó đều ở dạng kinh doanh đơn lẻ các dịch vụ còn đơn điệu, chưa có sản phẩm du lịch đặc trưng.
Tiềm năng của du lịch văn hoá là sản phẩm đặc trưng, nó quyết định chiến lược phát triển, quyết định chất lượng và hiệu quả của du lịch.
2-/ Vai trò của du lịch đối với văn hóa dân tộc:
Du lịch là phương tiện truyền tải bản sắc văn hoá Việt Nam với các dân tộc trên thế giới. Thật vậy, nếu như trước đây nói đến Việt Nam là nói đến chiến tranh, nói đến một dân tộc nghèo nàn, lạc hậu, trong những năm gần đây quan niệm đó đã dần thay đổi. Họ biết đến Việt Nam như là một nước đang cuộn mình phát triển, nói đến Việt Nam là nói đến tà áo dài thướt tha, là nói đến tiếng đàn bầu trầm bổng, là nghệ thuật múa rối nước đặc sắc, con người Việt Nam nhiệt tình, cởi mở, chan hoà,... mặt khác nhờ du lịch mà phục hồi và phát triển các lễ hội dân gian bị mất hoặc đang lụi tàn, khôi phục làng nghề thủ công truyền thống,... Đặc biệt là nghệ thuật đan mây tre, hàng thủ công mỹ nghệ đem lại giá trị rất cao. Cũng từ sự phát triển du lịch đem lại sự đầu tư, tôn tạo các công trình, kiến trúc di tích cổ như đền thờ, chùa chiền.
II-/ XU HƯỚNG KHAI THÁC BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH:
1-/ Xu hướng chung trên thế giới:
Nhân loại đang có những bước chuyển mình để bước sang thế kỷ 21. Thế kỷ 21 là thế kỷ của toàn cầu hoá, thế kỷ của thông tin, khoa học, công nghệ phát triển. Ngành du lịch cũng không thể đặt mình ngoài vòng xoáy đấy.
Theo các nhà chuyên gia du lịch trên thế giới, thế kỷ 21 là thế kỷ của du lịch Châu Á. Điều này do nhiều lý do sau: cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nhất là từ thập niên 50 trở đi sự hấp dẫn là Châu Âu, và Bắc Mỹ với những ngôi nhà chọc trời, ô tô, sâm banh,... thời đó khách du lịch rất ưa chuộng vùng ven biển Địa Trung Hải, Tây Ban Nha, Italia, Ma rốc, Kenia, Bungari, Rumani, Thổ Nhĩ Kỳ,... nổi tiếng nhất là Hawai, Giơneve. Cuối thập kỷ 70 đến nay cách mạng công nghệ phát triển, con người chán với nhịp sống ồn ào công nghiệp, sợ ô nhiễm môi trường, chán cảnh sống xô bồ ở những trung tâm đô thị, và vì thế hiện nay các đảo vắng, phế tích xưa, các phố phường với những nét đặc trưng phương đông, đang là nơi du khách ưa chuộng, đã và đang trở thành ưu thế mạnh của du lịch. Đối với phương Đông có một cái gì đó bí mật, hấp dẫn. Đó là rất nhiều đền đài nguy nga, lăng tẩm, những món ăn cầu kỳ của phương Đông. Mặt khác tính cạnh tranh và thời vụ trong du lịch văn hoá không cao, không khắc nghiệt và lạnh lùng như ở các ngành khác.
Vì vậy, khai thác bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển du lịch là một điều tất yếu. Một số nước ở Châu Á đã thành công trong lĩnh vực mới này là Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore,... Ở Hàn Quốc bản sắc văn hoá được giữ gìn ở các chùa Phật, công nên và ở những góc văn hoá dân tộc trong các khách sạn lớn. Ở Singapore, dân số 3 triệu người mà mỗi năm đón 7 triệu lượt khách, Thái Lan mỗi năm đón hơn 7 triệu lượt khách quốc tế. Đặc biệt là ở Nhật Bản người ta dễ nhận thấy bản sắc văn hoá Nhật Bản ở những khu phố hiện đại nhất, trong các bao bì của các sản phẩm hàng hoá, cách trang trí trong các trung tâm thương mại, siêu thị, trong sinh hoạt đời thường ở các khu phố vào những ngày cuối tuần hoặc ngày lễ.
2-/ Đối với Việt Nam:
Việt Nam nằm ở khu vực phát triển sôi động nhất của Châu Á vì vậy khai thác bản sắc văn hoá dân tộc trong phát triển văn hoá du lịch là một xu thế tất yếu. Kinh nghiệm cho thấy địa phương nào biết khai thác văn hoá truyền thống đích thực của hoạt động du lịch, địa phương đó sẽ phát triển và có doanh thu lớn. chẳng hạn như công ty du lịch Khánh Hoà năm 1995 đã đầu tư và mở rộng đầu tư nhiều hoạt động văn hoá nghệ thuật dân tộc như hàng tuần tổ chức hát quan họ Bắc Ninh, các điệu lý Nam Bộ, ví Dặm, biểu diễn các nhạc cụ dân tộc như đàn Tơ rưng, Krông pút, cồng chiêng,... thu hút càng ngày càng đông khách nước ngoài. Nhờ đó mà doanh thu tăng gấp hai lần năm 1994.
Mặt khác, Việt Nam có một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc là một thế mạnh phát triển du lịch, đưa du lịch Việt Nam sánh vai với các quốc gia khác trên thế giới. Thế kỷ 21 là thế kỷ của du lịch mang bản sắc đậm đà hương vị Việt Nam.
III-/ THỰC TRẠNG KHAI THÁC BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TRONG DU LỊCH Ở VIỆT NAM:
Văn hóa dân tộc Việt Nam ngày càng được bạn bè trên khắp thế giới biết đến, đặc biệt là khi có chính sách mở cửa. Thông qua các hoạt động hợp tác giao lưu văn hoá, nhất là qua các con đường du lịch văn hoá, nghệ thuật dân tộc Việt Nam đã đến được với bạn bè xa gần và họ hết sức ngưỡng mộ yêu thích. Càng ngày, càng nhiều người đến du lịch ở Việt Nam với mục đích tìm hiểu, thưởng thức văn hoá nghệ thuật cổ truyền Việt Nam. Cũng như ở các nước có ngành du lịch phát triển, ở nước ta, văn hoá truyền