Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh
nghiệp nào, nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất phải được ưu tiên hàng
đầu. Trong công nghiệp chế biến muốn tồn tại và phát triển phải gắn với vùng
nguyên liệu.
Qua 14 năm thu mua và chế biến kể từ năm 1986 đến nay Công ty cổ
phần mía đường Lam Sơn đã qua bao khó khăn có lúc tưởng chừng như không
thể vượt qua. Tình hình thực tế Công ty đứng bên bờ vực phá sản nhưng rồi lại
phát triển đi lên đem lại những thành quả tốt đẹp. Tất cả những thăng trầm ấy do
nhiều nguyên nhân đem lại, xong suy cho cùng một trong số những nguyên nhân
cơ bản quan trọng bậc nhất đó là vấn đề nguyên liệu cho nhà máy sản xuất.
Đủ nguyên liệu nhà máy chạy hết công suất, khai thác được tiềm năng săn
có của thiết bị, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giá thành hạ, đem lại lợi nhuận
cao, nộp ngân sách Nhà nước tăng, công nhân có công ăn việc làm, đời sống ổn
định và ngày càng được nâng cao, công nhân gắn bó với nhà máy.
Thiếu nguyên liệu nhà máy hoạt động kém hiệu quả, lãng phí thiết bị máy
móc, khấu hao trên đầu sản phẩm tăng, sản xuất bị thua lỗ, công nhân không có
công ăn việc làm, đời sống ngày càng khó khăn.
Từ những vấn đề trên trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có chủ
trương đường lối đổi mới của Đảng và các chính sách của Nhà nước về giao
quyền tự chủ cho sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Công ty cổ phần
mía đường Lam Sơn đã chủ động đầu tư giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu cung
cấp cho nhà máy sản xuất ổn định và phát triển.
100 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2286 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp cơ bản về phát triển vùng Nguyên liệu Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Một số giải pháp cơ bản về
phát triển vùng Nguyên liệu
Công ty Cổ phần mía đường
Lam Sơn
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh
nghiệp nào, nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất phải được ưu tiên hàng
đầu. Trong công nghiệp chế biến muốn tồn tại và phát triển phải gắn với vùng
nguyên liệu.
Qua 14 năm thu mua và chế biến kể từ năm 1986 đến nay Công ty cổ
phần mía đường Lam Sơn đã qua bao khó khăn có lúc tưởng chừng như không
thể vượt qua. Tình hình thực tế Công ty đứng bên bờ vực phá sản nhưng rồi lại
phát triển đi lên đem lại những thành quả tốt đẹp. Tất cả những thăng trầm ấy do
nhiều nguyên nhân đem lại, xong suy cho cùng một trong số những nguyên nhân
cơ bản quan trọng bậc nhất đó là vấn đề nguyên liệu cho nhà máy sản xuất.
Đủ nguyên liệu nhà máy chạy hết công suất, khai thác được tiềm năng săn
có của thiết bị, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giá thành hạ, đem lại lợi nhuận
cao, nộp ngân sách Nhà nước tăng, công nhân có công ăn việc làm, đời sống ổn
định và ngày càng được nâng cao, công nhân gắn bó với nhà máy.
Thiếu nguyên liệu nhà máy hoạt động kém hiệu quả, lãng phí thiết bị máy
móc, khấu hao trên đầu sản phẩm tăng, sản xuất bị thua lỗ, công nhân không có
công ăn việc làm, đời sống ngày càng khó khăn.
Từ những vấn đề trên trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có chủ
trương đường lối đổi mới của Đảng và các chính sách của Nhà nước về giao
quyền tự chủ cho sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Công ty cổ phần
mía đường Lam Sơn đã chủ động đầu tư giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu cung
cấp cho nhà máy sản xuất ổn định và phát triển.
Hiện nay trong xu thế phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh, Công ty cổ
phần mía đường Lam Sơn đã mở rộng nâng cao công suất nhà máy lên 6.500 tấn
mía cây/ngày. Do đó việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu đảm bảo đầy
đủ cho nhà máy sản xuất ngày càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn.
Từ những vấn đề nêu trên, việc đặt ra những chương trình nghiên cứu
về vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn, thực trạng vùng nguyên liệu và quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn
trong những năm vừa qua và đề ra những giải pháp nhằm xây dựng, phát triển
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
vùng nguyên liệu để cung cấp đầy đủ và ổn định cho nhà máy sản xuất là việc
làm có ý nghĩa thiết thực đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty.
Xuất phát từ thực tiễn đó tôi đã chọn đề tài: "Một số giải pháp cơ bản về
phát triển vùng Nguyên liệu Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn".
Mục tiêu nghiên cứu đề tài này nhằm giải quyết một số vấn đề sau đây:
- Chọn phương pháp quản lý đầu tư.
- Hạ giá thành sản phẩm để tăng giá mía.
- Nâng cao lợi ích cho người trồng mía.
- Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Công ty với người trồng mía.
Đề tài này được nghiên cứu trên thực tế của vùng nguyên liệu mía đường
Lam Sơn - Thanh Hoá.
Đề tài này gồm 3 chương:
Chương I : Cơ sở lý luận chung liên quan đến nguyên liệu
Chương II : Sự hình thành và phát triển của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn
Chương III : Một số giải pháp và ý kiến đề xuất
Với thời gian thực tập tại Công ty không được nhiều lắm và khả năng hiểu
biết của bản thân còn hạn chế nên trong đề tài này không tránh được những thiếu
sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo Nguyễn Văn Duệ, các cấp
lãnh đạo Công ty và các bạn giúp em hoàn thiện hơn nữa đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Văn
Duệ và Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ NGUYÊN VẬT LIỆU.
1. Khái niệm và mục tiêu của quản trị nguyên vật liệu.
1.1. Khái niệm quản trị nguyên vật liệu và mục tiêu của quản trị nguyên vật liệu.
- Các thuật ngữ khác nhau như quản trị nguyên vật liệu và cung ứng được
sử dụng như là mác chung cho quy mô toàn cục của tất cả các hoạt động được
yêu cầu để quản lý dòng nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp thông qua hoạt
động của doanh nghiệp đến sử dụng vật liệu cuối cùng, hoặc đối với người tiêu
dùng. Ta có khái niệm sau:
- Quản trị nguyên vật liệu là các hoạt động liên quan tới việc quản lý dòng
vật liệu vào, ra của doanh nghiệp. Đó là quá trình phân nhóm theo chức năng và
quản lý theo chu kỳ hoàn thiện của dòng nguyên vật liệu, từ việc mua và kiểm
soát bên trong các nguyên vật liệu sản xuất đến kế hoạch và kiểm soát công việc
trong quá trình lưu chuyển của vật liệu đến công tác kho tàng vận chuyển và
phân phối thành phẩm (1).
- Mục tiêu của quản trị nguyên vật liệu là:
+ Quản trị nguyên vật liệu nhằm đáp ứng yêu cầu về nguyên vật liệu cho
sản xuất trên cơ sở có đúng chủng loại nơi nó cần và thời gian nó được yêu cầu.
+ Có tất cả chủng loại nguyên vật liệu khi doanh nghiệp cần tới.
+ Đảm bảo sự ăn khớp của dòng nguyên vật liệu để làm cho chúng có sẵn
khi cần đến.
+ Mục tiêu chung là để có dòng nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp đến
tay người tiêu dùng mà không có sự chậm trễ hoặc chi phía không được điều
chỉnh.
1.2. Nhiệm vụ của quản trị nguyên vật liệu.
- Tính toán số lượng mua sắm và dự trữ tối ưu (kế hoạch cần nguyên vật
liệu).
1 PGS.PTS Nguyễn Kim Truy (Chủ biên), 1999, trang 120
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
- Đưa ra các phương án và quyết định phương án mua sắm cũng như kho
tàng.
- Đường vận chuyển và quyết định vận chuyển tối ưu.
- Tổ chức công tác mua sắm bao gồm công tác từ khâu xác định bạn hàng,
tổ chức nghiệp vụ đặt hàng, lựa chọn phương thức giao nhận, kiểm kê, thanh
toán.
- Tổ chức hoạt động vận chuyển nguyên vật liệu bao gồm từ khâu lựa
chọn và quyết định phương án vận chuyển: Bạn hàng vận chuyển đến kho doanh
nghiệp thuê ngoài hay tự tổ chức vận chuyển bằng phương tiện của doanh
nghiệp, bố trí và tổ chức hệ thống kho tàng hợp lý (vận chuyển nội bộ).
- Tổ chức cung ứng và tổ chức quản trị nguyên vật liệu và cấp phát kịp
thời cho sản xuất.
2. Phân loại nguyên vật liệu.
2.1. Phân loại nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu chính: là những thứ mà sau quá trình gia công, chế biến
sẽ thành thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm (kể cả bán thành phẩm mua
vào).
Vật liệu phụ: Là những vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất,
được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi màu sắc, hình dáng,
mùi vị hoặc dùng để bảo quản, phục vụ hoạt động của các tư liệu lao động hay
phục vụ cho lao động của công nhân viên chức (dầu nhớt, hồ keo, thuốc nhuộm,
thuốc tẩy, thuốc chống rỉ, hương liệu, xà phòng...)
Nhiên liệu: Là những thứ để cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản
xuất, kinh doanh như than, củi, xăng, hơi đốt, khí đốt...
Phụ tùng thay thế: Là các chi tiết, phụ tùng để sửa chữa và thay thế cho
máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải...
Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Bao gồm các vật liệu và thiết bị (cần
lắp, không cần lắp, vật cấu kết, công cụ, khí cụ...) mà doanh nghiệp nhằm mục
đích đầu tư xây dựng cơ bản.
Phế liệu: Là các loại thu được trong quá trình sản xuất hay thanh lý tài
sản, có thể sử dụng hay bán ra ngoài (phôi bào, vải vụn, gạch, sắt...).
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
Vật liệu khác: Bao gồm các vật liệu còn lại ngoài các thứ chưa kể trên
như bao bì, vật đóng gói, các loại vật tư đặc chủng (2).
2.2. Vai trò nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu là một bộ phận của đối tượng lao động, là một bộ phận
trọng yếu của quá trình sản xuất kinh doanh, nó chỉ tham gia vào một chu kỳ sản
xuất kinh doanh nhất định và toàn bộ nguyên vật liệu được chuyển hết vào chi
phí kinh doanh.
Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất (sức lao
động, tư liệu lao động và đối tượng lao động) trực tiếp cấu tạo nên thực thể của
sản phẩm.
Trong quá trình sản xuất không thể thiếu nhân tố nguyên vật liệu vì thiếu
nó quá trình sản xuất sẽ không thể thực hiện được hoặc sản xuất bị gián đoạn.
Chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản xuất,
chúng ta không thể có một sản phẩm tốt khi nguyên vật liệu làm ra sản phẩm đó
lại kém chất lượng. Do vậy cần có một kế hoạch đảm bảo nguồn nguyên vật liệu
cho quá trình sản xuất được diễn ra thường xuyên liên tục, cung cấp đúng, đủ số
lượng, quy cách, chủng loại nguyên vật liệu... chỉ trên cơ sở đó mới nâng cao
được các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, sản xuất kinh doanh mới có lãi và doanh
nghiệp mới có thể tồn tại được trên thương trường.
- Xét cả về thực tiễn ta thấy rằng, nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố
cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, nếu thiếu nguyên vật liệu hoặc sản
xuất cung cấp không đầy đủ, đồng bộ theo quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ
không có hiệu quả cao.
- Xét về mặt vật chất thuần tuý thì nguyên vật liệu là yếu tố trực tiếp cấu
tạo nên sản phẩm, chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
sản phẩm. Do đó công tác quản trị nguyên vật liệu là một biện pháp cơ bản để
nâng cao chất lượng sản phẩm.
2.3. Vai trò quản trị nguyên vật liệu.
- Quản trị nguyên vật liệu tốt sẽ điều kiện tiền đề cho hoạt động sản xuất
có thể tiến hành và tiến hành có hiệu quả cao.
2 PTS Nguyễn Văn Công (Chủ biên), 1998, trang 45,46
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
- Quản trị nguyên vật liệu tốt sẽ tạo cho điều kiện cho hoạt động sản xuất
diễn ra một cách liên tục, không bị gián đoạn góp phần đáp ứng tốt nhu cầu của
khách hàng.
- Là một trong những khâu rất quan trọng, không thể tách rời với các khâu
khác trong quản trị doanh nghiệp.
- Nó quyết định tới chất lượng của sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng
khắt khe, khó tính của khách hàng.
- Một vai trò rất quan trọng nữa của quản trị nguyên vật liệu đó là nó góp
phần làm giảm chi phí kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm do đó tạo điều kiện
nâng sức cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
3. Sự luân chuyển của dòng nguyên vật liệu.
Nắm bắt được sự luân chuyển của dòng vật liệu sẽ giúp cho nhà quản trị
nhận biết được xu hướng vận động, các giai đoạn di chuyển của dòng nguyên
vật liệu để có biện pháp quản lý một cách tốt nhất.
Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của các doanh nghiệp lớn đó là sự
vận động. Với một số lượng lớn nhân lực và sự phức tạp của thiết bị có thể kéo
theo việc quản lý nguyên vật liệu trong doanh nghiệp. Các vật liệu dịch chuyển
từ hoạt động này sang hoạt động khác khi các yếu tố đầu vào được chuyển thành
các đầu ra thông qua quá trình chế biến.
Ta có sơ đồ sau:
Sơ đồ luân chuyển dòng vật liệu
Qua sơ đồ trên ta thấy, phần đầu vào của dòng vật liệu kéo theo những hoạt
động như mua, kiểm soát, vận chuyển và nhận. Các hoạt động liên quan tới
nguyên vật liệu và cung ứng nguyên vật liệu trong phạm vi doanh nghiệp có thể
bao gồm kiểm tra quá trình sản xuất, kiểm soát tồn kho và quản lý vật liệu. Các
Bên bán Bên
Nhận
h ng
Nhận
h ng
Vận
chuyển Đầu ra
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
hoạt động liên quan đến đầu ra có thể bao gồm đóng gói, vận chuyển và kho
tàng.
4. Các đơn vị cung ứng và một số hoạt động liên quan tới quản trị nguyên
vật liệu.
Cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp và trách nhiệm được giao cho từng
đơn vị phụ thuộc vào khả năng của người lao động và nhu cầu của doanh nghiệp
khi các nhà ra quyết định của nó quan sát được điều đó. Tương ứng với mỗi
cách mà doanh nghiệp được tổ chức, một số chức năng liên quan tới quản trị
nguyên vật liệu có thể được thực hiện trong một số bộ phận của doanh nghiệp.
Ta có một số hoạt động liên quan tới quản trị nguyên vật liệu:
- Mua.
- Vận chuyển nội bộ.
- Kiểm soát tồn kho.
- Kiểm soát sản xuất.
- Tập kết tại phân xưởng.
- Quản lý vật liệu.
- Đóng gói và vận chuyển.
- Kho tàng bên ngoài và phân phối.
Những người có trách nhiệm đối với các chức năng trên báo cáo cho nhà
quản lý vật liệu, nhà cung ứng hoặc nhà quản lý điều hành. Các chức năng được
thực hiện và cộng tác để đảm bảo điều hành một cách có hiệu quả.
Từ chỗ các doanh nghiệp tổ chức theo các cách thức rất đa dạng nó có thể
đặt tên các loại phòng cụ thể và có trách nhiệm chính xác như tên của nó. Sau
đây ta cần phân tích một số hoạt động trên. Bốn chức năng đầu hầu như chỉ diễn
ra trong hoạt động sản xuất vật chất. Hoạt động mua bán và kiểm tra hàng hoá
trong khi xảy ra trong sản xuất vật chất và phi vật chất.
4.1. Hoạt động kiểm soát sản xuất:
Nó thực hiện các chức năng sau:
- Xây dựng lịch điều hành sản xuất cho phù hợp với khả năng sẵn có của
nguyên vật liệu thưo công việc và tiến độ tồn đọng trước đó, xác định cho nhu
cầu sản phẩm và thời gian cho sản xuất.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
- Giải quyết nhanh gọn hoặc hướng dẫn các phân xưởng sản xuất nhằm
thực hiện các tác nghiệp cần thiết để đáp ứng tiến độ sản xuất.
- Xuất vật liệu cho các phân xưởng hoạt động khi chức năng này không
được thực hiện bởi bộ phận kiểm tra vật liệu.
- Quản lý quá trình làm việc trong các bộ phận tác nghiệp xúc tiến công
việc của các bộ phận này sao cho nó có thể bám sát tiến độ và tháo gỡ những
công việc của một số phòng khi tiến độ thay đổi.
4.2. Hoạt động vận chuyển.
Chi phí vận tải và thời gian mà nó thực hiện để nhận được các sản phẩm
đầu vào hoặc phân phối sản phẩm của doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Việc
lựa chọn địa điểm cho các phương tiện của doanh nghiệp có mối quan hệ cố hữu
với chi phí và thời gian từ sản xuất đến giao nhận. Sau khi địa bàn cho các
phương tiện được lựa chọn, thì chi phí và thời gian vận chuyển cho các hàng hoá
bên trong và bên ngoài đều có thể được kiểm soát đối với một số khu vực thông
qua bộ phận vận tải của doanh nghiệp. Bộ phận vận tải của doanh nghiệp có
trách nhiệm hợp đồng với người thực hiện để vận chuyển hàng hoá (bộ phận vận
chuyển có nhiệm vụ lựa chon các phương tiện và hình thức vận chuyển, kiểm
soát vận đơn để xem xét hoá đơn có hợp lệ không, phối hợp sao cho chi phí là
thấp nhất).
4.3. Hoạt động giao nhận.
Một số bộ phận của tổ chức thông thường là bộ phận tiếp nhận phải có
trách nhiệm đối với hàng hoá nhận ddưcợ của vật tư đến và sửa chữa, bảo dưỡng
và cung cấp. Bộ phận này có trách nhiệm:
- Chuẩn bị báo cáo tiếp nhận nguyên vật liệu.
- Giải quyết nhanh gọn các nguyên vật liệu nhằm chỉ ra ở đâu chúng sẽ
được kiểm tra, cất trữ hoặc sử dụng.
4.4. Hoạt động xếp dỡ.
- Quản lý các phương tiện vận tải của doanh nghiệp.
- Chuyển hàng lên phương tiện vận tải.
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUẢN TRỊ NGUYÊN VẬT LIỆU
TRONG DOANH NGHIỆP.
1. Số lượng nhà cung cấp trên thị trường.
Một trong những nhân tố ảnh hưởng rất thường tới các quá trình quản trị
nguyên vật liệu đó là các nhà cung cấp. Số lượng đông đảo các nhà cung cấp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau là thể hiện sự phát triển của thị trường
các yếu tốt đầu vào nguyên vật liệu. Thị trường này càng phát triển bao nhiêu
càng tạo ta khả năng lớn hơn cho sự lựa chọn nguồn nguyên vật liệu tối ưu bấy
nhiêu.
Mặt khác, sức ép của nhà cung cấp có thể tạo ra các điều kiện thuận lợi
hoặc khó khăn cho quản trị nguyên vật liệu. Sức ép này gia tăng trong những
trường hợp sau:
- Một số công ty độc quyền cung cấp.
- Không có sản phẩm thay thế.
- Nguồn cung ứng trở nên khó khăn.
- Các nhà cung cấp đảm bảo các nguồn nguyên vật liệu quan trọng nhất
cho doanh nghiệp.
2. Giá cả của nguồn nguyên vật liệu trên thị trường.
Trong cơ chế thị trường giá cả là thường xuyên thay đổi. Vì vậy việc hội
nhập và thích nghi với sự biến đổi đó là rất khó khăn do việc cập nhật các thông
tin là hạn chế. Do vậy nó ảnh hưởng tới việc định giá nguyên vật liệu, quản lý
nguyên vật liệu trong doanh nghiệp. Việc thay đổi giá cả thường xuyên là do:
- Tỷ giá hối đoái thay đổi làm cho các nguyên vật liệu nhập khẩu với giá
cũng khác nhau.
- Do các chính sách của chính phủ (quata, hạn ngạch...)
- Do độc quyền cung cấp của một số hãng mạnh.
3. Trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý trong doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp ở nước ta hiện nay do việc xem nhẹ các hoạt động
quản lý liên quan tới nguồn đầu vào của doanh nghiệp cho nên ảnh hưởng rất
lớn tới kết quả kinh doanh. Một trong những yếu tố của việc xem nhẹ này là việc
đánh giá không đúng tầm quan trọng của yếu tố đầu vào (đặc biệt là doanh
nghiệp nhà nước) do trình độ của cán bộ quản lý còn hạn chế, số lượng đào tạo
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
chính quy rất ít, phần lớn làm theo kinh nghiệm và thói quen. Mặt khác là do
những yếu kém của cơ chế cũ để lại làm cho một số doanh nghiệp hoạt động
không năng động còn trông, chờ, ỷ lại...
4. Hệ thống giao thông vận tải.
Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới công tác quản trị nguyên vật liệu là
hệ thống giao thông vận tải của một nơi, một khu vực, một quốc gia, những
nhân tố này thuận lợi sẽ giúp cho quá trình giao nhận nguyên vật liệu thuận tiện,
đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, làm cho mọi hoạt động không bị ngừng trệ
mà trở nên đồng đều, tạo ra mức dự trữ giảm, kết quả là ta sử dụng vốn có hiệu
quả hơn.
Thực tế đối với mỗi doanh nghiệp nguồn nhập nguyên vật liệu không chỉ
trong nước mà còn cả các nước khác trên thế giới. Như vậy hệ thống giao thông
vận tải có ảnh hưởng lớn tới công tác quản trị nguyên vật liệu của một doanh
nghiệp. Nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc kìm hãm một doanh nghiệp phát
triển, đồng nghĩa với nó là việc hoạt động có hiệu quả hay không của một doanh
nghiệp.
II. VAI TRÒ CỦA NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
CHẾ BIẾN NÔNG-LÂM-THUỶ SẢN
Nguyên liệu dùng vào sản xuất bao gồm nhiều loại nguyên liệu như:
nguyên liệu chính, nguyên liệu phụ... Chúng tham gia một lần vào chu kỳ sản
xuất và cấu thành thực thể sản phẩm. Nó là một trong những yếu tố chính của
quá trình sản xuất. Vì vậy, nếu thiếu nguyên lỉệu không thể tiến hành được sản
xuất.
Đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất thực chất là nghiên cứu một trong các
yếu tố chủ yếu của sản xuất. Thông qua việc nghiên cứu này để giúp cho doanh
nghiệp thấy rõ được ưu nhược điểm trong công tác cung cấp nguyên liệu đồng
thời có biện pháp đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng chủng loại và quy
cách phẩm chất. Không để xảy ra tình trạng cung cấp thiếu nguyên liệu ngừng
sản xuất, thừa nguyên liệu gây ứ đọng vốn sản xuất.
1. Đảm bảo tình hình cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu.
Để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất , đi đôi với việc đảm bảo các yếu tố lao
động, tư liệu lao động, phải thực hiện tốt việc cung cấp nguyên liệu cho sản
LuËn v¨n tèt nghiÖp Lª ngäc Quang – QLKT.K. K 28
xuất. Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà
nguyên liệu của nó có những nét đặc trưng riêng. Đối với doanh nghiệp công
nghiệp nguyên liệu gồm: nguyên liệu chính, nguyên liệu phụ, phế liệu. Đối với
công ty xây lắp nguyên liệu gồm xi măng, sắt, thép, cát. Đối với doanh nghiệp
nông nghiệp nguyên liệu gồm: hạt giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đối với sản
xuất như ngành đường nguyên liệu là cây mía.
Trong điều kiện kinh tế thị trường nguyên liệu nhập về doanh nghiệp từ
nhiều nguồn khác nhau như: tự nhập khẩu, liên doanh liên kết, đối lưu vật tư...
Mỗi nguồn nhập lại có một giá mua, bán khác nhau. Vì vậy để đánh giá tình
hình cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu không thể dựa vào giá thực tế của
chúng mà phải biểu hiện khối lượng nguyên liệu thực tế cung cấp theo giá kế
hoạch. Ngoài ra cần dựa vào tỷ lệ hoàn thành kế hoạch cung cấp về tổng khối
lượng nguyên liệu.
2. Đảm bảo tình hình cung cấp về các loại nguyên liệu chủ yếu.
Trong thực tế sản xuất, doanh nghiệp có thể sử dụng vật liệu thay thế để
sản xuất sản phẩm song điều đó không có nghĩa là đối với mọi