Trong quá trình phát triển kinh tế , nhiều nước trên thế giới đã có được
những thành công to lớn nhờ có các chính sách phát triển kinh tế xã hội
đúng đắn mà một trong những yếu tố cơ bản là có được chính sách phát triển
công nghiệp phù hợp. Tiêu biểu cho sự thành công này phải kể đến các nước
NIC. Mặc dù với xuất phát điểm không cao nhưng nhờ có chính sách phát
triển công nghiệp đúng đắn, các nước này đã nhanh chóng trở thành những
con rồng châu á và đang cạnh tranh với những nước có nền kinh tế phát triển
khác.
Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII trình Đại hội đại biểu toanf quốc lần thứ IX có nêu: “ Mục tiêu tổng quát
của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 20012010 là : Đẩy mạnh
CNHHĐH đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển , tập trung sức
xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và công
nghệ cao sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật;
công nghệ chế biến tiên tiến cho các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp ,
dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phàng, tạo nền tảng đến 2020 nước ta trở
thành một nước công nghiệp “.
Để thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam cần thiết phải xây dựng vf thực
hiện được một chính sách phát triển kinh tế nói chung và một chính sách phát
triển công nghiệp hữu hiệu nói riêng. Song đối với Việt Nam quan niệm về
chính sách công nghiệp còn chưa áo sự nhất uán. vì vậyn việc nghiên cứu
chính sách công nghiệp Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng cho việc thực hiện dường lối đẩy mạnh CNHHĐH đất nước, đưa
Việt Nam cơ bản trở thành một cước công nghiệp vào năm 2020.
Đó cũng là lý do khiến em chọn đề tài: “Một số giải pháp hoàn thiện
chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 20012020”, với
mong muốn gopó một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây
dựng đất nước .
66 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Một số giải pháp hoàn thiện chính sách
phát triển công nghiệp Việt Nam giai
đoạn 2001 2020
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế , nhiều nước trên thế giới đã có được
những thành công to lớn nhờ có các chính sách phát triển kinh tế xã hội
đúng đắn mà một trong những yếu tố cơ bản là có được chính sách phát triển
công nghiệp phù hợp. Tiêu biểu cho sự thành công này phải kể đến các nước
NIC. Mặc dù với xuất phát điểm không cao nhưng nhờ có chính sách phát
triển công nghiệp đúng đắn, các nước này đã nhanh chóng trở thành những
con rồng châu á và đang cạnh tranh với những nước có nền kinh tế phát triển
khác.
Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII trình Đại hội đại biểu toanf quốc lần thứ IX có nêu: “ Mục tiêu tổng quát
của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 2010 là : Đẩy mạnh
CNH HĐH đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển , tập trung sức
xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và công
nghệ cao sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật;
công nghệ chế biến tiên tiến cho các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp ,
dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phàng, tạo nền tảng đến 2020 nước ta trở
thành một nước công nghiệp “.
Để thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam cần thiết phải xây dựng vf thực
hiện được một chính sách phát triển kinh tế nói chung và một chính sách phát
triển công nghiệp hữu hiệu nói riêng. Song đối với Việt Nam quan niệm về
chính sách công nghiệp còn chưa áo sự nhất uán. vì vậyn việc nghiên cứu
chính sách công nghiệp Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng cho việc thực hiện dường lối đẩy mạnh CNHHĐH đất nước, đưa
Việt Nam cơ bản trở thành một cước công nghiệp vào năm 2020.
Đó cũng là lý do khiến em chọn đề tài: “Một số giải pháp hoàn thiện
chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 2020”, với
mong muốn gopó một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây
dựng đất nước .
Với sự giúp đỡ tận tình của Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Tiến Dũng
và Cán bộ hướng dẫn: Lê Thuỷ Chung , Em xin mạnh rạn đưa ra cơ cấu đề tài
như sau :
Chương I. Cơ sở lý lluận của chính sách phát triển công nghiệp .
Chương II . Thực trạng chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam .
Chương III. Một số giải pháp cho chính sách phát triển công nghiệp
Việt Nam giai đoạn 20012020.
Do có hạn chế vìi thời gian và trình độ, đề tài chắc chắn sẽ còn nhiều
thiếu sót, Em rất mong có được sự phê bình, sửa chữa của thày cô để chuyên
đề thực tập được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
I.BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP
Hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ II, có thể coi là thời kỳ tăng
trưởng kinh tế nhanh nhất của chủ nghĩa tư bản . Tất cả các nước công nghiệp
chính trong giai đoạn này đều trải qua mọt giai đoạn tăng trưởng nhanh với
lạm phát và thất nghiệp thấp. Đây cũng là lý do đưa học thuyết của J. Keynes-
Nhà kinh tế học người Mỹ (1883-1946) trở thành một tư tưởng kinh tế phổ
biến rộng rãi ở các trung tâm quyền lực của thế giới tư bản .
Thế nhưng, với các cú sốc dầu lửa thập kỷ 70s đã mở đầu cho sự sụp đổ
của một giai đoạn tăng trưởng đầy ấn tượng trước đây.Đã có rất nhiều những
thay đổi mang tính chất cơ cấu trong nền kinh tế thế giới. Sự dịch chuyển lao
động từ khu vực nông nghiệp truyền thống sang các ngành công nghiệp và
dịch vụ tạo ra một thị trường lao động vói giá nhân công tăng và sự lớn mạnh
của các tổ chức nghiệp đoàn.
Bên cạnh các nước công nghiệp phát triển phương Tây, Nhật Bản xuất
hiện với tư ccách là một trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Các nước mới
công nghiệp hoá ở Đông á và Đông nam á ciếm vị trí hàng đầu trên một số thị
trường thế giới như : dệt may, điện tử dân dụng, đóng tàu và sắt thép. Những
thay đổi này đã làm phong phú hơn cho bức tranh công nghiệp thế giới. Tăng
trưởng nhanh chóng trong giai đoạn 1970 đã che dấu một thực tế là các nền
kinh tế tư bản có nhiều điểm khác nhau về hệ thống chính sách kinh tế .
Trước những thay đổi ở tren, đi kèm với sự chấm dứt của thời kỳ tăng
trưởng nhanh với lạm phát và thất nghiệp thấp, các nước công nghiệp phát
triển đã buộc phải điều chỉnh tư tưởng kinh tế chủ đạo, xuất hiện rất nhiều các
cố gắng tìm kiếm những phương thức can thiệp của Chính phủ .
Một trong những cố gắng đó được thể hiện qua thuật ngữ “Chính sách
công nghiệp ”.
Mặc dù chính sách công nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với một số
nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Pháp và các nước NIC Châu á
như: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo thời kỳ sau Chiến tranh thế giới II, song
cho đến cuối những năm 1970 khái niệm ít được nhắc đến trên phương diện lý
thuyết. Những người ủng hộ chính sách công nghiệp chủ yếu tập trung vào
xem xét chính sách công nghiệp trên khía cạnh các vấn đề chính sách thực thế
mà không nghiên cứu nhiều về nền tảng lý thuyết của chính sách công nghiệp
. Thưc tế này dẫn đến tình trạng ngay cả những người ủng hộ rất mạnh mẽ
chính sách công nghiệp cũng không thể mô tả thực tế chính sách công nghiệp
vận hành như thế nào.
II. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
1.Khái niệm về chính sách phát triển công nghiệp
1.1. Các quan điểm .
Chính sách công nghiệp là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Chỉ xét
riêng ở Nhật Bản đã có những quan điểm bất đồng về chính sách công nghiệp.
a. Quan điểm của Trezise(1983).
Ông là một trong những người phản đối công nghiệp công nghiệp và
cho rằng trợ cấp của Chính phủ và các khoản vay ưu đãi cho khu vực doanh
nghiệp Nhật Bản là nhỏ hơn tương đối so vơí một quyết định thành công của
Nhật Bản.
b. Quan điểm của Reich(1982).
Là một trong những học giả ủng hộ rất mạnh mẽ quan điểm về chính
sách công nghiệp ở Mỹ .Theo quan điểm của ông, chính sách công nghiệp bao
gồm những nội dung sau:
+ Các chính sách đối với những khu vực công nghiệp được ưu tiên .
+ Chính sách phát triển nguồn nhân lực
+ Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
+ Chính sách phát triển vùng
c. Quan điểm của Pinder(1982)
Nội dung của chính sách công nghiệp gồm:
+ Các chính sách trợ giúp phát triển công nghiệp
+ Các ưu đãi về tài chính cho đầu tư
+ Chương trình đầu tư công cộng
+ Dự trữ của khu vực công cộng
+ Trợ cấp tài chính cho R & D
+ Chống độc quyền
+ Lập luận ngàn công nghiệp non trẻ
+ Các biện pháp khuyến khích ưu đãi các doanh nghiệp quy mô vừa và
nhỏ
+ Chính sách phát triển vùng
+ Các biện pháp bảo hộ mậu dịch
1.2. Khái niệm chính sách phát triển công nghiệp
Trên phương diện lý thuyết, chính sách công nghiệp được xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau. Một chính sách công nghiệp có thể có phạm vi tổng
quát hay mục tiêu cụ thể, nhấn mạnh vào sử dụng các công cụ theo chiều dọc
hay chiều ngang, và có thể có tác dụng tiêu cực hoặc tích cực đối với tăng
trưởng kinh tế .
Một chính sách công nghiệp có phạm vi rộng nhằm vào khuyến khích
tất cả các ngành công nghiệp , trong khi đó một chính sách công nghiệp có
phạm vi hẹp thì chỉ tập trung vào một hay một số khu vực công nghiệp được
lựa chọn theo những tiêu thức nhất định .
Như vậy, chính sách phát triển công nghiệp được hiểu là sự can thiệp
trực tiếp hay gián tiếp của Chính phủ hướng vào những ngành nhất định để
đạt được những ngành nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể (Mục tiêu này
có thể là tăng trưởng, xây dựng năng lực cạnh tranh, tạo công ăn việc làm).
Chính sách công nghiệp thường được thể hiện dưới dạng tổ chức ngành, chọn
ngành ưu tiên, chính sách tài chính và tín dụng (thuế, tợ cấp, đầu tư trực tiếp
của Nhà nước, tín dụng ưu đãi) đối với ngành, chính sách phát triển nguồn
nhân lưc của ngành, chính sách tăng tỷ lệ nội địa hoá các sản phẩm của
ngành, chính sách đầu tư nước ngoài vào các ngành, chính sách kinh tế đối
với các ngành , chính sách đối với các khu vực chế xuất và khu công nghiệp
tập trung.
2. Nội dung và mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp .
2.1 Nội dung
Một là, chính sách phát triển công nghiệp bao gồm toàn bộ những hoạt
động hoạch định của một nước ngằm phát triển công nghiệp, liên quan tới
những hoạt động hoạch dịnh này là những vấn đề điều chỉnh cơ cấu sản xuất
và đầu tư , hiện đại hoá và cải tổ cơ cấu công nghiệp, chính sách thị trường và
xuất nhập khẩu , chính sách khuyến khích R & D , chính sách đối với sản xuất
quy mô nhỏ và các chính sách có liên quan đến phát triển nguồn lực và năng
lượng.
Hai là, trong chính sách công nghiệp cần định rõ các ngành công
nghiệp cụ thể sẽ được khuyến khích và dành cho nhừng lĩnh vực này những
ưu tiên khác nhau trong một thời gian nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực của đất nước vào việc đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng
trưởng kinh tế .
Ba là, xây dựng đồng bộ hệ thống các phương tiện khuyến khích phát
triển các ngành công nghiệp đã dược lựa chọn . Liên quan đến các phương
tiện này là khuyến khích về tài chính, xây dựng hệ thống kiểm soát thích hợp
hỗ trợ hoạt động R & D, đặc biệt quan tâm tới các mục tiêu và kế hoạch dài
hạn ,...
2.2. Mục tiêu.
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định mục tiêu của chính sách phát
triển công nghiệp. Phần lớn ở các nước khi xây dựng chính sách phát triển
công nghiệp thường đưa ra nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, có thể nêu lên 2 mục
tiêu chính là : phát triển công nghiệp cân đối và công bằng.
- Phát triển công nghiệp cân đối đòi hỏi phải đảm bảo được sự cân đối
giữa ngành công nghiệp, giữa các địa phương và vùng lãnh thổ. Hầu hết các
nước trong quá trình phát triển công nghiệp đều không tập trung đầu tư quá
mức vào một ngành công nghiệp nào và tìm cách để duy trì được các thị
trường có khả năng cạnh tranh lớn.
Ngoài ra, mục tiêu phát triển cân đối còn được thể hiện ở chỗ : Bên
cạnh các trung tâm công nghiệp của các thành phố lớn, nhiều nước ddax
khuyến khích phát triển các vùng nông thôn và coi việc định vị lại công
nghiệp như là phương tiện quan trọng cho mục tiêu này.
Để thiết lầp được một cơ cấu công nghiệp cân đối, các cước chú ý vào
hai vấn đề là thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp quy mô nhỏ và lựa chọn,
phát triển một số ngành công nghiệp mũi mhọn.
- Mục tiêu công bằng là một trong hai mục tiêu chính của chính sách
công nghiệp. Nó bao gồm các mặt như công bằng xã hội và công bằng giữa
các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc thực hiện mục tiêu này có ý ngiã
đảm bảo cho sự phát triển bền vững của công nghiệp nói riêng và của cả nền
kinh tế nói chung.
Ngoài hai mục tiêu trên còn có những mục tiêu khác như: đảm bảo
“chất lượng cuộc sống” thông qua việc thiết lập các quy tắc xã hội để kiểm
soát ô nhiễm và chất thải, ban hạnh luật về lương thực, thực phẩm, hoặc cũng
có nước đặt mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp là nhằm tăng thu
nhập về ngoại hối nhằm cải thiện cán cân thanh toán. Trong những năm gần
đây, gới xu thế gia tăng về hội mhaapj kinh tế, các nước còn coi mục tiêu tăng
cường hợp tác kinh tế với thế giới và khu vực là mục tiêu của chính sách phát
triển công nghiệp…
3. Trọng tâm của chính sách phát triển công nghiệp.
Chính sách công nghiệp đặt trọng tâm vào phát triển khu vực chế tạo
của nền kinh tế. Những người ủng hộ chính sách công nghiệp cho rằng hiện
tượng phi công nghiệp hoá ở Anh và Mỹ trong khoảng 3 thập kỷ qua xuất
phát từ việc coi nhẹ vai trò của khu vực chế tạo, lam giảm đóng góp của khu
vực này vào GDP và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Theo Cohen và Zysman (1987): với tầm quan trọng của khu vực chế
tạo thì đây là một sự sai lầm về định hướng chính sách. Thêm vào đó, các
biện pháp điều chỉnh kinh tế vĩ mô có thể lầ chưa đủ để có thể thúc đẩy sự
phát triển của khu vực chế tạo vì đối với tăng trưởng năng suất của khu vực
này, sự phân bổ vốn còn có ý nghĩa quan trọng hơn là tổng giá trị vốn đầu tư.
Chính vì vậy, Chính phủ cần can thiệp trực tiếp để thúc đẩy phát triển công
nghiệp.
Tuy nhiên, đó cũng là trong tâm gây nhiều tranh cãi. Những người phản
đối quan điển chính sách công nghiệp cho rằng tăng trưởng kinh tế trong thời
kỳ hậu công nghiệp ở các nước tư bản phát triển đặt trọng tâm vào khu vực
dịch vụ, dịch vụ trở thành trung tâm của các hoạt động kinh tế. Vì vậy, các
biện pháp can thiệp của Chính phủ theo hướng ưu tiên khu vực công nghiệp
mà không tập trung cho phát triển khu vực dịch vụ không nhưngx là không
cần thiết mà còn có ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế. Chính sách công
nghiệp sẽ cản trở cơ chế chọn lọc tự nhiên của thị trường và ngăn cản việc tái
phân bổ các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế cho khu vực dịch vụ, vì vậy
ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng lâu dài của nên kinh tế (quan
điểm của Burtơn-1983).
Song sự thay đổi về cơ cấu theo hướng phát triển dịch vụ không phải
chỉ đơn thuần là vì con người mong muốn tiêu dùng nhiều dịch vụ khi đới
sống được cải thiện. Lý do chủ yếu nhất của sự dịch chuyển về cơ cấu này là
do chi phí lạm phát tương đối của khu vực dịch vụ tăng trưởng chậm trong
năng suất của khu vực này, chứ không phải là do sự dịch chuyển thật sự của
nhu cẩu thị trường về phía khu vực dịch vụ khi thu nhập gia tăng.
Bên cạnh đó, xu hướng phi công nghiệp hoá quan sát được ở một số
nước công nghiệp phát triển là một kết quả tất yếu trong dài hạn của sự chênh
lệch năng suất lao động giữa hai khu vực này chứ không nhất thiết là do khu
vực công nghiệp suy giảm sức cạnh tranh. Ngay cả các nền kinh tế hướng
mạnh vào xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp như Nhật Bản, Đức cũng chịu
những ảnh hưởng nhất định của phi công nghiệp hoá. Nói cách khác, phi công
nghiệp hoá và sự suy giảm của khu vực công nghiệp là hai khái niệm khác
nhau, mặc dù sự giảm sút của khu vực công nghiệp có thể ảnh hưởng đến mức
độ phi công nghiệp hoá. Vì vậy, không thể kết luận rằng khu vực công nghiệp
của một nền kinh tế nào đó đang xuống dốc nếu chỉ căn cứ vào những biểu
hiện của phi công nghiệp hoá mà nó đang phải trải qua theo định nghĩa ở trên.
4. Tính tất yếu của chính sách công nghiệp.
Chính sách bao hàm ý nghĩa có sự can thiệp của Chính phủ dưới bất cứ
hình thức nào. Cần phải có chính sách là vì thị trường có những khiếm khuyết
nhất định:
4.1.Do những thất bại của thị trường và vai trò can thiệp của Chính phủ .
Lý thuyết phổ biến nhất lý giải cho sự can thiệp của Chính phủ vào nền
kinh tế là lý thuyết về sự thất bại của thị trường. Tư tưởng trong tâm của
trường phái này tập trung vào thất bại của cơ chế thị trường trong việc cân
bằng giữa chi phí và lợi ích giữa cá nhân và xã hội, đồng thời cho rằng Chính
phủ có thể can thiệp để khắc phục khuyết tật của thị trường.
Hàng hoá công cộng là một thất bại hay được nhắc đến nhất của cơ chế
thị trường. Vì tính không ngoại trừ của hàng hoá công cộng, các cá nhân luôn
có đông lực thực hiện hành vi của những người ăn theo, ảnh hưởng của vấn
đề những người ăn theo là các hàng hoá công cộng sẽ được cung cấp ít hơn
mức xã hội mong muốn. Vì vậy Chính phủ cần can thiệp thông qua trực tiếp
cung cấp hàng hoá công cộng.
Tiếp nữa, sự tồn tại của tính kinh tế nhờ quy mô có thể là một yếu tố
dẫn đến những cơ cấu thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trong một cơ
cấu thị trường như vậy, mức giá cung cấp sẽ cao hơn mức giá cạnh tranh hoàn
hảo dẫn đến tổn thất thặng dư tiêu dùng. Phần tổn thất này được chuyển một
phần vào thặng dư sản xuất dưới dạng lợi nhuận độc quyền, phần còn lại là lợi
ích mất không của xã hội. Mặc dù lý thuyết “Điều tốt thứ nhì”và quan điểm
cho rằng can thiệp của Chính phủ có thể là nguyên nhân của thị trường cạnh
tranh không hoàn hảo, sự tồn tại của cơ cấu thị trường này vẫn là một lý do
quan trọng biện minh cho vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị
trường.
4.2. Xuất phát từ lý thuyết về sự thất bại của Chính phủ.
Trong thực tế, cũng như khả năng thị trường tự do có những khuyết tật,
sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế cũng có thể không thành công vì
bản thân Chính phủ cũng có những thát baị của nó.
Có hai yếu tố chính cản trở Chính phủ có thể đạt được mục tiêu can
thiệp vào nền kinh tế.
Thứ nhất, chi phí cần thiết để Chính phủ có thể thu thập đủ và xử lý tốt các
thông tin về thất bại thị trường trong nhiều trường hợp có thể còn lớn hơn cả
lợi ích mà các biện pháp khắc phục khuyết tật thị trường mang lại.
Thứ hai, vì có sự xuất hiện của việc thu thập , xử lý thông tin, sự can thiệp
của Chính phủ có thể lại dẫn đến những chi phí nhất định đối với xã hội, và
chi phí này cũng có thể lớn hơn lợi ích mà nó mang lại.
4.3. Lý thuyết thể chế mới về sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế.
Như đã phân tích trong phần trên, can thiệp của Chính phủ để khắc
phục những khuyết tật củâ thị trường sẽ dẫn đến những chi phí nhất định mà
những chi phí này có thể lớn hơn cả lợi ích thu được từ sự can thiệp của
Chính phủ. Tuy nhiên, điều đó không đủ để có thể kết luận rằng Chính phủ
không thể can thiệp có hiệu quả vào nền kinh tế.
Lý thuyết thể chế mới cho rằng chi phí về thông tin có thể giảm thong
qua những thay đổi thichs hợp trong hệ thống tổ chức của bộ náy hành chính
và trong quan niệm về giá trị của các cá nhân là thành viên của bộ váy chính
quyền và xã hội. Những chi phí thu thập và xử lý thông tin sẽ có thể được loại
bỏ thông qua việc cho phép cạnh tranh giữa các Đảng phái và sử dụng các
công cụ can thiệp thích hợp.
Ngoài ra, lý thuyết này còn cho rằng thị trường không phải là một cơ
chế điều phối duy nhất đối với sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế.
Thị trường,Chính phủ, các hãng, và các thể chế kinh tế khác đều có vai trò
trong một cơ chế phối hợp để dưa ra các quyết định chính sách. Những người
ủng hộ quan điểm này cho rằng Chính phủ có thể giải quyết vấn đề phối hợp
giữa các tác nhân ở trên với chi phí thấp hơn mức chi phí phối hợp của thị
trường, thông qua việc xác lập một hệ thống quyền sở hữu phù hợp, đảm bảo
ổn định kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc xã hội theo các nhóm, tầng lớp lớn, điều
phối và định hướng đầu tư, xây dựng tự hào và bản sắc dân tộc.
4.4. Quan điểm kinh tế chính trị.
Lý thuyết thất bại thị trường biện minh cho sự can thiệp của Chính phủ
dựa trên giả định cho rằng mục tiêu của Chính phủ là phải can thiệp vào thị
trường, phục vụ lợi ích của xã hội.
Quan điểm kinh tế chính trị, ở một thái cực là các nhà kinh tế Marxist,
ở thái cực khác là trường phái Chicago xuất phát từ những quan điểm khác.
Chính phủ có thể có một mức độ độc lập nhất định đối với đai chúng,
nhất là khi không có giai cấp nào có đủ khả năng ảnh hưởng mạnh đến các
quyết định chính sách. Trong tình huống này Chính phủ có thể hành động
theo mục tiêu tối đa hoá nguồn thu vào ngân sách.
Theo Findlay (1990), Chính phủ có thể được coi như là một lực lượng
độc lập đưa ra các quyết định không nhất thiết phải xuất phát từ lợi ích của xã
hội.
Quan điểm về nhóm lợi ích coi Chính phủ như là chiếc hộp đen mà các
nhóm lợi ích trong xã hội có thể đối kháng, hay liên minh với nhau để đưa ra
các quyết định về chính sách. Khi một khu vực công nghiệp nào đó có tầm
quan trọng đối với nền kinh tế, sức ép của nhóm lợi ích này có thể dẫn đến
các quyết định về chính sách thuận lợi đối với nhóm lợi ích đó mà có thể gây
phương hại đến những nhóm lợi ích khác trong xã hội.
Một số nhà kinh tế Marxist cho rằng sự tồn tại của một Nhà nước phu
thuộc chặt chẽ vào phương thức tái sản xuất của xã hội, và vì vậy, Chính phủ
phải hành động vì lợi ích của giai cấp đóng vai trò chủ đạo về kinh tế trong
cấu trúc xã hội.
Nói tóm lại, khác với lý thuyết về thất bại của thị trường, quan điểm kinh tế
chính trị cho rằngcp có thể có sự can thiệp vào nền kinh tế nhưng có thể đươc
biện minh bởi những nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm, mức độ độc lậpcủa
từng hệ thống chính quyền.
Từ những lý do nói trên dẫn đ