Nhìn lại sau hơn 20 năm qua,từ năm 1986,khi Đại hội VI của đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện,ta sẽ thấy so với thời điểm ấy,ngày nay bộ mặt của đất nước và xã hội đã có sự thay đổi lớn.
Sau 20 năm đổi mới,Việt Nam hiện đang sở hữu một tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và liên tục,bền vững qua nhiều năm.Chất lượng cuộc sống người dân ngày càng được cải thiện,hình ảnh của những năm tháng khủng hoảng đã bị đẩy lùi.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá đang tạo nên vóc dáng của một đất nước tiến nhanh về phía trước.
Toàn đảng,toàn dân,cùng góp công chung sức để thay đổi diện mạo cho đất nước,nhiều mô hình kinh tế đã được thử nghiệm và đưa lại những thành công đáng ghi nhận.trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong những thành công ấy.
Những năm gần đây,doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang bước những bước đột biến,trở thành một lực lượng quan trọng trong quá trình công ngiệp hoá,hiện đại hoá đất nước,góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất,huy động và phát triển nội lực vào phát triển kinh tế xã hội góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế,tăng kim nghạch xuất khẩu,tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như : tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo .
Đường lối đổi mới kinh tế và định hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này hoàn toàn phù hợp quy luật phát triển và với điều kiện nước ta hiện nay.Hai mươi năm đổi mới, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được đánh giá cao,thể hịên qua sự quan tâm,hỗ trợ của chính phủ,các cơ quan ban nghành có liên quan.
Tuy nhiên trong thực tế,các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp rất nhiều khó khăn,vướng mắc cần được tháo gỡ,trong đó những vấn đề cần được đặc biệt quan tâm là :
- Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn thấp ( so với các nước khác trong khu vực và thế giới ),khả năng tiếp cận với các nguồn vốn còn hạn chế
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thường gắn với công nghệ lạc hậu,thủ công
- Trình độ quản lý thấp
- Trình độ lao động thấp
- Khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường còn hạn chế
- Hoạt động chủ yếu trên diện tích đất thuộc quyền sở hữu của chủ đầu tư
Là một doanh nghiệp vừa và nhỏ,Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu cũng ý thức được những khó khăn cũng như thuân lợi của mình trước vận hội lớn của đất nước, đặc biệt là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO,toàn bộ lãnh đạo cũng như công nhân của công ty đang ra sức cố gắng để khẳng định vị thế của mình trên thương trường.
58 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2522 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Promexco, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nhìn lại sau hơn 20 năm qua,từ năm 1986,khi Đại hội VI của đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện,ta sẽ thấy so với thời điểm ấy,ngày nay bộ mặt của đất nước và xã hội đã có sự thay đổi lớn.
Sau 20 năm đổi mới,Việt Nam hiện đang sở hữu một tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và liên tục,bền vững qua nhiều năm.Chất lượng cuộc sống người dân ngày càng được cải thiện,hình ảnh của những năm tháng khủng hoảng đã bị đẩy lùi.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá đang tạo nên vóc dáng của một đất nước tiến nhanh về phía trước.
Toàn đảng,toàn dân,cùng góp công chung sức để thay đổi diện mạo cho đất nước,nhiều mô hình kinh tế đã được thử nghiệm và đưa lại những thành công đáng ghi nhận.trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong những thành công ấy.
Những năm gần đây,doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang bước những bước đột biến,trở thành một lực lượng quan trọng trong quá trình công ngiệp hoá,hiện đại hoá đất nước,góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất,huy động và phát triển nội lực vào phát triển kinh tế xã hội góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế,tăng kim nghạch xuất khẩu,tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như : tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo ..
Đường lối đổi mới kinh tế và định hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này hoàn toàn phù hợp quy luật phát triển và với điều kiện nước ta hiện nay.Hai mươi năm đổi mới, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được đánh giá cao,thể hịên qua sự quan tâm,hỗ trợ của chính phủ,các cơ quan ban nghành có liên quan.
Tuy nhiên trong thực tế,các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp rất nhiều khó khăn,vướng mắc cần được tháo gỡ,trong đó những vấn đề cần được đặc biệt quan tâm là :
Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn thấp ( so với các nước khác trong khu vực và thế giới ),khả năng tiếp cận với các nguồn vốn còn hạn chế
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thường gắn với công nghệ lạc hậu,thủ công
Trình độ quản lý thấp
Trình độ lao động thấp
Khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường còn hạn chế
Hoạt động chủ yếu trên diện tích đất thuộc quyền sở hữu của chủ đầu tư
Là một doanh nghiệp vừa và nhỏ,Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu cũng ý thức được những khó khăn cũng như thuân lợi của mình trước vận hội lớn của đất nước, đặc biệt là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO,toàn bộ lãnh đạo cũng như công nhân của công ty đang ra sức cố gắng để khẳng định vị thế của mình trên thương trường.
CHƯƠNG I : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH Ở CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT BAO BÌ VÀ HÀNG XUẤT KHẨU
I.Khái quát về công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu
1.Quá trình hình thành và phát triển
Tên doanh nghiệp : Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu
Tên giao dịch : PRODUCTION FOR PACKING AND EXPORTING GOODS JOINT STOCK COMPANY
Tên viết tắt : PROMEXCO
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số : 0103013308 do Bộ thương mại cấp ngày 01/08/2006
Địa chỉ trụ sở : Km9 - Đường Ngọc hồi - Phường Phương liệt - Quận Hoàng mai – thành phố Hà nội
Từ khi thành lập đến nay công ty đã trải qua 4 giai đoạn phát triển chính :
* Giai đoạn từ năm 1973 đến 1987 : công ty hoạt động trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
Tiền thân là Xí nghiệp bao bì II,trực thuộc bộ ngoại thương được thành lập từ ngày 24/12/1973.Trong thời kì bao cấp Xí nghiệp chuyên chỉ đóng bao bì gỗ theo chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước
* Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1995
Từ sau khi đại hội VI của đảng đề ra đường lối đổi mới,xí nghiệp đã chuyển sang thực hiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường và chuyển thành xí nghiệp liên hiệp sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu,vừa sản xuất vừa kinh doanh gỗ tròn,gỗ xẻ.Do trình độ quản lý yếu kém của cán bộ lãnh đạo xí nghiệp,hơn nữa hàng hoá đang mua bán với số lượng tồn kho lớn để xuất khẩu thì chính phủ lại có chỉ thị số 90/HĐBT ngày 24/03/1992 cấm xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ.Nên toàn bộ hàng hóa của công ty không xuất khẩu được phải đưa vào sản xuất dẫn đến tiêu hao lớn và thua lỗ gần 40 tỷ đồng.Nợ ngân hàng và các khách hàng khác xí nghiệp không có khả năng thanh toán. Đứng trên bờ vực phá sản,gần 1.000 công nhân không có việc làm phải nghỉ việc, đời sống gặp muôn vàn khó khăn.
* Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2001
Được sự quan tâm giúp đỡ của thủ tướng chính phủ,bộ thương mại cùng các bộ nghành địa phương,thủ tướng đã cho thành lập lại công ty theo quyết định số 766+767/TM/TCCB ngày 04/09/1996 của bộ thương mại,Xí nghiệp được đổi tên thành công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu, đồng thời cho xoá nợ lãi,giảm nợ gốc vay ngân hàng trong 5 năm 1996 – 2001. điều động cán bộ lãnh đạo công ty ở trên bộ xuống thay thế
Tuy nhiên,trong 06 năm hoạt động.Công ty cũng chỉ duy trì được việc làm cho 209 cán bộ công nhân viên,doanh thu đạt năm cao nhất cũng chỉ đạt 26,7 tỷ đồng/năm,nộp ngân sách nhà nước được hơn 800 triệu đồng/năm.Thu nhập của người lao động đạt 435.000 đồng/người/tháng.Trước tình hình đó Bộ thương mại cho kiện toàn lại tổ chức,thay giám đôc mới từ tháng 4 năm 2000. Đảng uỷ,giám đôc,công đoàn đã bố trí sắp xếp lại bộ máy quản lý,tổ chức lại mô hình toàn công ty với 3 phòng nghiệp vụ ( TCHC,KTTC,KH – KDXNK ) và 3 phòng kinh doanh.06 xí nghiệp sản xuất cùng 02 chi nhánh tại Thành phố Hồ chí Minh và chi nhánh tại thị xã Móng cái tỉnh Quảng ninh.Do vậy,sản xuất kinh doanh của công ty đã dần dần ổn định và đã có lãi,doanh số,lợi nhuận,nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước.Năm 2000 doanh số đạt trên 112 tỷ đồng,nộp ngân sách 2,28 tỷ đồng,lao động bình quân đạt 254 người/năm,thu nhập bình quân đạt 900.000 đồng/người/tháng;lợi nhuận đạt được 152,9 triệu đồng.Tập thể CBCNV đoàn kết, đời sống dần dần được nâng lên. Đảng uỷ,Giám đốc,Công đoàn luôn chăm lo đến đời sống người lao động nhất là con em thương binh liệt sỹ,gia đình có công với cách mạng.Do vậy,CBCNV đã an tâm trong sản xuất kinh doanh tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng uỷ Giám đôc công ty.
* Giai đoạn từ năm 2002 đến nay
Công nợ tồn đọng dần dần được giải quyết.Các ngân hàng đã cho công ty vay vốn hoạt động theo nhu cầu kinh doanh,công ty luôn luôn bảo toàn được vốn,trả gốc và lãi đúng hạn.Vừa qua công ty được thủ tướng chính phủ cho xử lý xoá nợ gốc vay ngân hàng 15,586 tỷ đồng.tới nay tài chính của công ty đã tương đối lành mạnh.Công ty đã được Bộ chủ quản cùng các vụ chức năng tạo điều kiện giúp đỡ từ một công ty sản xuất kinh doanh yếu kém đến nay đã mở mang ra được nhiều nghành nghề : sản xuất kết hợp với kinh doanh dịch vụ tổng hợp nên hiệu quả sản xuất kinh doanh năm sau cao hơn năm trước. Do công ty sản xuất,kinh doanh ngày càng phát triển nên ngày 23/12/2005.theo quyết định số 3147/2005/QĐ-BTM,công ty đã thực hiện thành công cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước,và chuyển sang hoạt động dưới dạng công ty cổ phần.tên công ty chính thức lúc đó là công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu.và tên công ty được giữ nguyên đến thời điểm này
Trong suốt quá trình phát triển,công ty luôn xác định phương châm hoạt động là : lấy khách hàng là trung tâm,luôn luôn hoàn thiện,và không ngừng đổi mới sản xuất kinh doanh để đa dạng hoá sản phẩm, đồng thời chú trọng đến việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng được sự thay đổi của nhu cầu thị trường tại mọi thời điểm.
2.Cơ cấu tổ chức của Doanh nghiệp
Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu được minh hoạ dưới sơ đồ sau :
Bảng 1: sơ đồ cơ cấu tổ chức Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu
Ghi chú : : Điều hành trực tiếp
: Kiểm soát hoạt động
( Nguồn : phòng tổ chức hành chính công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu )
3.Chức năng,nhiệm vụ hoạt động của công ty
Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu có chức năng,nhiệm vụ : sản xuất và kinh doanh như sau :
Sản xuất,gia công bao bì và hàng xuất khẩu
Kinh doanh các sản phẩm bao bì,hàng nông sản,lâm sản ( trừ loại lâm sản nhà nước cấm ).hải sản,rượu bia,nước giải khát,phương tiện vận tải,vật liệu xây dựng,phân bón ( không bao gồm kinh doanh quán bar )
Kinh doanh máy móc thiết bị,vật tư,nguyên liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng
Kinh doanh nhà hàng,khách sạn,lữ hành nội địa ( không bao gồm kinh doanh quán bar,phòng hát karaoke,vũ trường )
Đầu tư,xây dựng hạ tầng cơ sở,kinh doanh nhà ở,văn phòng và trang trí nội thất,cho thuê văn phòng,căn hộ,kho,bãi,nhà xưởng
Dịnh vụ trông giữ xe ô tô trong phạm vi kho bãi của Doanh nghiệp
Mở cửa hàng bán buôn,bán lẻ hàng sản xuất trong nước và hàng xuất khẩu
Xuất nhập khẩu các mặt hàng mà công ty kinh doanh
Mục tiêu khách hàng của công ty là : đảm bảo cung cấp ổn định,thoả mãn các sản phẩm với chất lượng cao,giá cả cạnh tranh,dịch vụ hoàn hảo.Luôn làm hài lòng mọi thành phần khách hàng là mục tiêu hành động và cam kết của công ty trong suốt thời gian qua.
Sự phát triển của công ty dựa trên chính sách khách hàng và không ngừng đổi mới công nghệ và đổi mới chính sách chất lượng lao động.Chính nhu cầu đa dạng của khách hàng là động lực thúc đẩy sự phát triển của các loại sản phẩm,công nghệ,dịch vụ hỗ trợ và chất lượng lao động của công ty.
II.Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao.
Như vậy,năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp,không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ,tài chính,nhân lực,tổ chức quản trị doanh nghiệp … một cách riêng biệt mà cần đánh giá,so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng lĩnh vực,cùng một môi trường.Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối thủ cạnh tranh.Trên cơ sở các so sánh đó,muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình.Nhờ lợi thế này,doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Thực tế cho thấy,không một doanh nghiệp nào có khả năng thoả mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng.Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác.Vấn đề cơ bản là,doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng.Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như marketing,tài chính,sản xuất,nhân sự,công nghệ,quản trị,hệ thống thông tin … Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp,cần phải xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng.Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những nghành,lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau.
Mặc dù vậy,vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm :
Giá cả sản phẩm
Chất lượng sản phẩm và bao gói
Kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng
Thông tin và xúc tiến thương mại
Năng lực nghiên cứu và phát triển
Thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp
Trình độ lao động
Thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần
Vị thế tài chính
Năng lực tổ chức và quản lý doanh nghiệp .
1.Giá cả sản phẩm
Giá cả sản phẩm được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua chính sách giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với thị trường có sự kết hợp với một số điều kiện khác. Định giá có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì nó là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Giá của sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu,người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới một mức giá cuối cùng cả hai bên cùng có lợi. Giá đóng vai trò quan trọng quyết định mua hoặc không mua của khách hàng : khách hàng cần giá thành sử dụng của hàng hoá và dịch vụ đó cho nên khách hàng chỉ chọn mua những hàng hoá có chất lượng sản phẩm tương đương nhưng giá thấp hơn số hàng hoá,dịch vụ cùng loại.Tính quy luật chung của cầu hàng là khi giá cao thì ít người mua và giá hạ thì nhiều người mua,giá hạ sẽ khuyến khích người ta mua thêm và người ít tiền có thể mua được,và tất nhiên mức cầu tăng lên.Do vậy không phải căn cứ giá cao là thu được lợi nhuận cao hoặc ngược lại,không phải cứ bán giá thấp là lợi nhuận giảm.Doanh nghiệp phải tính toán nhiều phương án định giá, ứng với mỗi giá là một lượng cầu,từ các phương án này ta chọn ra phương án có thể thu được lợi nhuận cao nhất.Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả mà doanh nghiệp có thể kiểm soát là : chi phí sản xuất sản phẩm,chi phí bán hàng và chi phí lưu thông, để bán được hàng và nâng cao ưu thế trong cạnh tranh,các doanh nghiệp phải đưa ra giá cả sản phẩm thấp hơn các đối thủ cạnh tranh.Chính vì vậy,doanh nghiệp phải tìm mọi cách để hạ giá thành sản phẩm như : thuê nhân công có trình độ với giá thấp,đặt nhà máy tại nơi gần nguồn nguyên vật liệu để giảm bớt chi phí vận chuyển…
Như vậy với một mức giá phù hợp doanh nghiệp sẽ tạo được chỗ đứng của mình trên thị trường,làm sức mạnh để phát triển sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường và lợi thế với đối thủ cạnh tranh.
2.Chất lượng sản phẩm và bao gói
Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngày cả sau khi tiêu dùng hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố : công nghệ dây chuyền sản xuất,nguyên vật liệu,trình độ tay nghề lao động,trình độ quản lý…Chất lượng sản phẩm có thể được hiểu là mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật hoặc là khả năng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng.Nâng cao chất lượng thì phải giải quyết được cả hai vấn đề trên.
Xuất phát từ quan điểm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng,khi đời sống của con người ngày càng cao thì việc cải thiện chất lượng sản phẩm trở thành vấn đề cấp bách đối với mỗi doanh nghiệp.Làm ngược lại,doanh nghiệp đã tự từ chối khách hàng, đẩy lùi hoạt động sản xuất kinh doanh.Mặt khác,cải thiện chất lượng sản phẩm còn giúp doanh nghiệp hội nhập tốt hơn với xu hướng toàn cầu hoá nên Kinh tế,vươn tới những thị trường xa hơn.
Hiện nay,khi nền Kinh tế ngày càng phát triển,một quan niệm mới về chất lượng đã xuất hiện : chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, đẹp,bền mà nó còn do khách hàng quyết định.Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng mang tính khách quan. ở đây,nhân tố khách quan đã tác động,chi phối yếu tố khách quan.Quan điểm này xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt hơn,chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định sức mạnh của doanh nghiệp :
Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm,tăng khối lượng hàng hoá bán ra,kéo theo chu kỳ sống của sản phẩm
những Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp,kích thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường
Chất lượng sản phẩm làm tăng khả năng sinh lời,cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp
Chất lượng sản phẩm tạo tiền đề giúp doanh nghiệp có thể xâm nhập trường khó tính.
Tóm lại,chất lượng hàng hoá là yếu tố cạnh tranh được nhìn nhận theo quan điểm tổng hợp. Đây là bài toán đòi hỏi có lời giải riêng của từng tổ chức cung cấp hàng hoá,dịch vụ.
3.Kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng
Doanh nghiệp trong nền Kinh tế thị trường bao gồm cả chức năng sản xuất và tiêu thụ.Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhận.
Mục tiêu của tiêu thụ sản phẩm là phát triển cầu sản phẩm của doanh nghiệp nhằm ngày càng được nhiều hàng và mở rộng sản xuất.Về hệ thống tiêu thụ sản phẩm,việc tiêu thụ được doanh nghiệp thực hiện thông qua các tổ chức tiêu thụ của doanh nghiệp,trong đó kể cả các bộ phận có tính chất độc lập về Kinh tế như mở cửa hàng hoặc chi nhánh công ty.Cũng có thể lựa chọn một trong các kênh tiêu thụ sau :
Cung cấp sản phẩm,dịch vụ cho người tiêu dùng
Bán sản phẩm,dịch vụ cho doanh nghiệp thương mại lẻ
Bán sản phẩm,dịch vụ cho doanh nghiệp thương mại tổng hợp bán buôn
Việc xác định hệ thống kênh tiêu thụ hàng hoá,dịch vụ phụ thuộc vào đặc điểm sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đặc điểm của sản phẩm hàng hoá dịch vụ mà doanh nghiệp muốn tiêu thụ.Thực chất khi xác định hệ thống kênh tiêu thụ doanh nghiệp đã xác định hệ thống các điểm bán hàng của mình,việc xác định này dựa trên kết quả nghiên cứu thị trường,các điểm bán hàng phải được bố trí ở vị trí thuận lợi đảm bảo thu hút được nhiều khách hàng nhất.Muốn vậy,các điểm bán hàng,tư liệu sản xuất phải đảm bảo thuận tiện cho xe cộ đi lại ra vào,các điểm bán hàng tiêu dùng phải tính đến vị trí đông dân cư,giao thông thuận tiện.Trong toàn bộ các biện pháp nhằm hạn chế hoặc xoá bỏ các trở ngại trên thị trường tiêu thụ,quảng cáo được coi là công cụ đóng vai trò quan trọng hướng con người vào những hoạt động nhất định,kick thích tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp.Các hình thức như khuyến mãi,các dịch vụ sau bán hàng,yểm trợ bán hàng… là hình thức cạnh tranh phi giá,gây sự chú ý của khách hàng tới sản phẩm của doanh nghiệp.Hoạt động tiêu thụ tốt sẽ làm tăng sản lượng bán hàng từ đó tăng doanh thu,tăng lợi nhuận dẫn đến tốc độ thu hồi vốn nhanh,kick thích sản xuất phát triển.Công tác tiêu thụ tốt là một trong những yếu tố làm tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường,cùng với kỹ thuật yểm trợ bán hàng như chào hàng,quảng cáo,triển lãm,hội chợ … các hoạt động xúc tiến bán hàng,xuất bản các tài liệu nhằm đẩy mạnh bán hàng và xuất khẩu,thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm như bán kèm theo phụ tùng thay thế cho khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp, đây là hoạt động cần thiết để đẩy mạnh bán hàng trên thị trường,là con đường đi tới chiến thắng trong cạnh tranh.
Tiêu thụ nhanh với số lượng nhiều để tăng nhanh vòng quay của vốn,tăng lợi nhuận,thúc đẩy sản xuất kinh doanh,nâng cao vị thế của doanh nghiệp … không có doanh nghiệp nào là không mong muốn,nhưng muốn làm được điều đó không phải là vấn đề đơn giản.Xây dựng một hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi phải tính toán nhiều yếu tố,phải mất nhiều tiền của,nhiều năm tháng và không dễ gì có thể thay đổi,nhưng bù lại,doanh nghiệp có một nền móng vững chắc để phát triển thị trường,bảo về thị phần doanh nghiệp đang có và là tiền đề giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường,chiếm lĩnh thị trường.
4.Thông tin và xúc tiến thương mại
Thông tin là một nguồn lực then chốt trong tổ chức cùng với nguồn nhân lực,tài chính và các nguồn lực hữu hình khác.Thông tin cũng là một vấn đề kinh doanh.Thông qua quản trị có hiệu quả nguồn thông tin và hệ thống thông tin của tổ chức,các nhà quản lý trong tổ chức có thể :
Tăng thêm giá trị cho các dịch vụ cung cấp tới khách hàng
Nhân viên nhanh chóng xử lý giải quyết công việc được giao
Giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
Giảm chi phí trong quá trình hoạt động và cung cấp dịch vụ
Khuyến khích đổi mới quá trình hoạt động trong nội bộ và cung cấp dịch vụ cho bên ngoài
Cũng như thông tin,thì xúc tiến thương mại góp phần quan trọng trong việc đa dạng hoá thị trường,từ đó dẫn đến việc doanh nghiệp có thể nhận được nhiều hơn các đơn đặt hàng,giúp doanh nghiệp tăng cường liên kết để tăng quy mô sản xuất,hạ giá thành,nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Đồng thời kêu gọi được sự hợp tác của các nhà đầu tư sở hữu hợp đồng gia công những thương hiệu nổi tiếng đã có chỗ đứ