Sau một thời gian thực hiện chính sách đổi mới, Việt Nam đã tham gia trở lại
thị trường gạo thế giới với tư cách là một nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu trên
thế giới. Trong 11 năm qua (1990- 2000), Việt Nam đã xuất khẩu 28,83 triệu tấn
gạo đạt kim ngạch khoảng 6,0 tỷ USD. Tình hình sản xuất và kinh doanh lúa gạo
trên thế giới đang có những thách thức lớn, thị trường luôn bất ổn, sản lượng xuất
khẩu tăng giảm không đều, xu hướng cạnh tranh của các nước mới xuất khẩu ngày
càng ác liệt, thị trường nhập khẩu biến động không ngừng. Do đó, để đối phó với
những thách thức nhằm duy trì động lực cao khuyến khích nông dân tập trung đầu
tư thâm canh phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh lúa gạo, cần có
một hệ thống chính sách đồng bộ, trong đó chính sách thị trường là nòng cốt, việc
chọn lựa thị trường mục tiêu là rất quan trọng. Kết cấu của đề án sẽ gồm 4 phần:
I.Những vấn đề chung về xuất khẩu gạo.
II.Thực trạng về xuất khẩu gạo trong những năm qua.
III. Một số giải pháp nhăm góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu gạo trong
năm 2001 và một vài năm tới.
32 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2021 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhăm góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu gạo trong năm 2001 và một vài năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Một số giải pháp nhăm góp phần
tăng kim ngạch xuất khẩu gạo trong
năm 2001 và một vài năm tới
Lời mở đầu
Sau một thời gian thực hiện chính sách đổi mới, Việt Nam đã tham gia trở lại
thị trường gạo thế giới với tư cách là một nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu trên
thế giới. Trong 11 năm qua (1990- 2000), Việt Nam đã xuất khẩu 28,83 triệu tấn
gạo đạt kim ngạch khoảng 6,0 tỷ USD. Tình hình sản xuất và kinh doanh lúa gạo
trên thế giới đang có những thách thức lớn, thị trường luôn bất ổn, sản lượng xuất
khẩu tăng giảm không đều, xu hướng cạnh tranh của các nước mới xuất khẩu ngày
càng ác liệt, thị trường nhập khẩu biến động không ngừng. Do đó, để đối phó với
những thách thức nhằm duy trì động lực cao khuyến khích nông dân tập trung đầu
tư thâm canh phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh lúa gạo, cần có
một hệ thống chính sách đồng bộ, trong đó chính sách thị trường là nòng cốt, việc
chọn lựa thị trường mục tiêu là rất quan trọng. Kết cấu của đề án sẽ gồm 4 phần:
I.Những vấn đề chung về xuất khẩu gạo.
II.Thực trạng về xuất khẩu gạo trong những năm qua.
III. Một số giải pháp nhăm góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu gạo trong
năm 2001 và một vài năm tới.
VI. Kết luận.
Gạo là một thế mạnh của đất nước và nó sẽ mãi mãi là một thế mạnh của đất
nước. Do đó, vấn đề làm tăng kim ngạch xuất khẩu gạo vẫn là bài toán muôn thủa
của chúng ta và con cháu chúng ta. Vì vậy, bài viết nhỏ này sẽ không tránh khỏi
những khiếm khuyết, rất mong các thầy cô, các bạn và tất cả những người quan
tâm cùng giúp đỡ tôi để bài viết sau hoàn thiện hơn bài viết trước.
I . Những vấn đề chung về xuất khẩu gạo.
1.Khái niệm chung về xuất khẩu gạo.
Xuất khẩu gạo hiểu theo nghĩa đơn giản là việc các cá nhân, tổ chức, chính
phủ nước này chuyển giao gạo cho các cá nhân, tổ chức, Chính phủ nước kia để
thu một lượng ngoại tệ nhất định hoặc một lượng vật chất có giá trị tương đương.
2. Vai trò của xuất khẩu gạo trong đời sống xã hội và trong chiến lược
xuất khẩu của đất nước.
1.1. Vai trò của xuất khẩu gạo trong đời sống xã hội.
Trên thế giới, lúa xếp hàng thứ hai sau lúa mì về diện tích gieo trồng, nhưng
đứng trên quan điểm dinh dưỡng mà xét thì lúa gạo đã cung cấp số calo tính trên
đơn vị héc- ta lúa gạo có thể nuôi sống 5,7 người trong một năm, so với 5,3 đối
với ngô và 4,1 đối với lúa mì. Trong các khẩu phần dinh dưỡng của các nước châu
á, kể cả Việt Nam, gạo đã cung cấp 40-80% lượng calo và đã cung cấp được ít
nhất là 40% lượng Protein , Protein của lúa gạo có giá trị dinh dưỡng cao vi tính
cân bằng của các amimôacid không thể thay thế (essentilaminoacids) và vì độ tiêu
hoá của protein này rất cao (có thể lên tới 100%).
Còn xét về mặt xã hội thì nghề trồng lúa và công nghệ sản xuất lúa gạo, kể cả
công nghệ sau thu hoạch, đã tạo công ăn việc làm cho một cộng đồng lớn nhất của
nhân dân trong vùng nông thôn trên hành tinh của chúng ta. Khoảng 80-100 triệu
người tằng thêm hàng năm yêu cầu được cung cấp lương thực, phần lớn lại ở
những nước kém phát triển và nghèo. Theo Tiến Sĩ Lampe, nguyên Tổng giám đốc
Viện lúa Quốc tế IRRI, trong 30 năm tới dự đoán mỗi năm sẽ cần khoảng 870 triệu
tấn thóc chưa xay tăng hơn hiện nay 70%.
2.2. vai trò của xuất khẩu gạo trong chiến lược xuất khẩu của đất nước.
Giống như bao loại hình xuất khẩu hàng hoá khác, ngoài những vai trò chung
của mình, xuất khẩu gạo có những vai trò riêng biệt của nó trong bối cảnh của nền
kinh tế nước ta hiện nay.
Kim ngạch xuất khẩu gạo hàng năm tăng đều trong những năm gần đây, điều
đó đưa tỷ trọng kim ngạch ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc dân của mỗi
quốc gia ngày càng lớn, thể hiện mức độ mở cửa gia tăng của nền kinh tế mỗi
quốc gia ra thị trường thế giới.
Tăng nhanh tỷ trọng gạo xuất khẩu chất lượng cao so với gạo thô, điều đó
minh chứng một điều là sản phẩm công nghiệp chế biến đạt tỷ trọng tăng cao, và
nó còn minh chứng cho chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta là đúng
đắn. Chiến lược “phát huy thế mạnh của đất nước” trong chiến lược xuất khẩu của
đất nước phù hợp với nhu cầu khách quan của thế giới.
II. Thực Trạng xuất khẩu gạo trong thời gian qua và dự báo về xuất
khẩu gạo trong những năm tới.
1.Thực trạng về xuất khẩu gạo trong thời gian qua.
1.1.Chất lượng gạo xuất khẩu.
Hiện nay,chất lượng của lượng thực thực phẩm, nói chung và chất lượng của
lúa gạo nói riêng, là vấn đề đặt ra hàng đầu và hết sức bức thiết trong các hoạt
động khoa học và công nghệ cũng như trong các hoạt động kinh tế – xã hội. Chúng
được xem là sợi chỉ đỏ của ngành công nghiệp hiện đại. Nếu như khoảng 20 năm
trước đây, tiêu chuẩn để đánh gía trình độ phát triển ngành nông nghiệp của một
nước là số cân phân đạm tính trên đầu người, thì ngày nay một trong những tiêu
chí quan trọng là các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm nông nghiệp và số ngoại tệ
mạnh trên đầu người do chất lượng các sản phẩm nông nghiệp mang lại. Từ đó ta
dễ dàng hiểu rằng vì sao nhiều nước đã lấy khẩu hiệu chất lượng trước hết (first
quality) làm thước đo cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thị trường, phân
phối, lưu thông, xuất nhập khẩu…
Những năm gần đây, Việt Nam đã đứng vào hàng những nước xuất khẩu gạo
hàng đâu thế giới. Sản lượng của Việt Nam tăng từ 1,4 triệu tấn năm 1989 lên 3,8
triệu tấn năm 1998, năm 1999 đạt trên 4,3 triệu tấn năm 2000 đạt 3,6 triệu tấn.
Trong những năm tới Việt Nam dự kiến xuất khẩu ở mức ổn định 4,0-4,5 triệu tấn/
năm. Về số lượng khá lớn, song hiệu quả xuất khẩu và khả năng cạnh tranh thì gạo
của Việt Nam đang còn thấp, một trong những nguyên nhân là do chất lượng gạo
của Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu về phẩm cấp của thị trường gạo thế
giới. Gạo của chúng ta thiếu sự đồng đều về phẩm cấp hạt, dù trong cùng một
vùng sinh thái song lại có quá nhiều giống lúa khác nhau được trồng. Trong cơ cấu
giống lúa đang sử dụng ở ĐBSCL thì các giống lúa hạt dài, chất lượng gạo cao thị
trường thế giới ưa thích lại chiếm tỷ trọng thấp. Trái lại, các giống lúa có năng
suất cao, khả năng kháng sâu bệnh tốt, song hạt gạo ngắn, chất lượng thấp lại
được đa số nông dân ưa chuộng. Mặt khác, tỉ lệ hạt bạc bụng, hạt vàng, hạt xanh
non,tạp chất,… trong gạo xuất khẩu còn cao cũng đã làm giảm khả năng cạnh
tranh.
2.1. Số lượng và giá cả gạo xuất khẩu.
Thị trường lúa gạo là một trong những thị trường ngũ cốc quan trọng của thế
giới. Năm 1995,cả thế giới xuất khẩu 21 triệu tấn, đến năm 1998 xuất khẩu 27,42
triệu tấn và năm 2000 thế giới sẽ xuất khẩu khoảng 23 triệu tấn. Thực tế thị trường
gạo hiện nay đang gặp phải hai vấn đề khó khăn ảnh hưởng đến số lượng và giá cả
gạo xuất khẩu:
+ Mức cung và mức cầu: Có khuynh hướng luôn luôn biến động mạnh do
sản xuất phải phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Cụ thể năm 2000 do lũ
lụt ảnh hưởng nặng nề, không những ảnh hưởng đến chất lượng gạo mà còn ảnh
hưởng lớn đến sản lượng, làm chúng ta không đạt được kim ngạch xuất khẩu như
dự kiến.
Diễn biến tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới chia theo vùng lãnh thổ.
ĐVT: 1.000 tấn
Niên vụ
Khu vực
1998-1999 1999- 2000
North America 1/ 8.941 10.034
Latin America 2/ 21.720 20.392
EU 2.607 2.722
Other West, Eur 0 0
Former USSD 1.229 1.069
Eastem Europe 4/ 60 62
Middle East 5/ 3.282 2.965
North Africa 6/ 4.166 4.769
Other Africa 7/ 10.698 11.250
South Asia 8/ 169.377 171.312
Other Asia 9/ 352.039 358.443
Oceania 10/ 1.390 1.329
Tình hình tiêu thụ lúa gạo trên thế giới chia theo vùng lãnh thổ.
ĐVT: 1.000 tấn
Tiêu dùng 1999 2000
North America 1/ 4.670 4.516
Latin America 2/ 14.153 14.528
EU 2.005 2.051
Other West, Eur 50 53
Former USSD 1.118 1,039
Eastem Europe 4/ 252 260
Middle East 5/ 5.393 5.485
North Africa 6/ 2.907 3.081
Other Africa 7/ 10.697 11.236
South Asia 8/ 108.815 111.000
Other Asia 9/ 237.914 239.477
Oceania 10/ 495 505
+ Vấn đề tài chính: Các nước xuất khẩu luôn luôn tăng sản lượng sản xuất
lúa gạo không chỉ để thoả mãn cho nhu cầu tăng dân số mà còn mang lại nguồn
ngoại tệ đáng kể. Vì vậy, xu thế sẽ xuất hiện thêm nhiều nước xuất khẩu lúa gạo,
dẫn đến xu hướng cạnh tranh ác liệt trên thị trường lúa gạo thế giới. Trong những
năm gần đây, Pakistan, Myanma, ấn Độ và Trung Quốc mỗi nước xuất khoảng
trên 2,0 triệu tấn/năm,riêng Việt Nam năm 1999 đã xuất được trên 4,5 triệu tấn, và
dự kiến trong năm 2000 sẽ xuất khoảng 4,3 triệu tấn, được xem là một trong các
nước xuất khẩu mới có thể cạnh tranh với hai nước xuất khẩu gạo truyền thống là
Thái Lan (xuất khoảng 5-6 triệu tấn/năm), Mỹ xuất khoảng 2,5-3,0 triệu tấn/năm,
đặc biệt là ấn Độ năm 1996 đã xuất khẩu gần 4 triệu tấn gạo và năm 1998 đã xuất
khẩu gần 4,5 triệu tấn.
Tình hình xuất khẩu gạo ở một số nơi trên thế giới qua các năm.
ĐVT:1000 tấn
Nước 1999 2000
Argentina 525 500
Australia 700 700
Burma 200 225
China 2.000 2.100
Guyana 300 310
India 2.750 2.200
Pakistan 2.000 2.000
Thailand 5.700 5.700
Uruguay 725 700
Vietnam 4.000 3,64.000
EU 350 350
Others 1.325 1.460
Subtotal 20.575 20.191
United States 2.750 3.000
WORLD TOTAL 23.325 23.191
Trong khi đó, tình hình nhập khẩu của các nước trên thế giới biến động thất
thường và giao động ở mức 20,4- 23,0 triệu tấn/năm và một số nước có nhu cầu
nhập khẩu gạo thì gặp phải khó khăn về khả năng thanh toán như Châu Phi,
Irăc…
Tình hình nhập khẩu gạo ở một số nơi trên thế giới qua các năm.
ĐVT: 1000 tấn
Khu vực 1998 1999 2000
Malaysia 593 650 675
Mexico 295 325 365
Nigeria 800 800 800
Peru 230 200 200
Philippines 2.187 1.200 900
Russia 200 300 300
Saudi rabia 775 750 800
Senegal 600 600 600
Singapore 267 350 350
SSouth Africa 525 550 575
Eastem Europe 250 215 222
United State 294 300 310
Subtotal 22.983 18.640 18.452
OtherCountries 2.799 2.877 2.766
Unaccounted 1.646 1.808 1.973
WORLD TOTAL 27.428 23.325 23.191
Để tăng mức độ cạnh tranh, những nước xuất khẩu truyền thống có nguồn tài
chính dồi dào đã trợ giá cho nông dân và xuất khẩu dưới hình thức tín dụng
thương mại nên có ưu thế hơn.
Chẳng hạn, mùa thu năm 1990 Thái Lan đã bán cho gạo Liên Xô (cũ) với
giá 235USD/ tấn (giá FOB) nếu trả ngay. Chính phủ Thái Lan cũng đã tổ chức
nâng đỡ thị trường nội địa,và cuối năm 1990 Nhà nước đã mua được khoảng
200.000 tấn lúa của nông dân với giá nâng đỡ. Đầu năm 1999, Chính phủ Thái Lan
đã thực hiện bán gạo số lượng rất lớn cho Iran với hình thức tín dụng thương mại
2 năm.
Đầu quý 1/2000 Chính phủ Thái Lan tiếp tục can thiệp để hỗ trợ thị trường
gạo trong nước bằng cách Chính phủ mua thêm 100.000 tấn gạo của các nhà máy
mua thóc có độ ẩm 25% của nông dân với giá 4450 bah/tấn (37.983 Bah/ USD)
đối với hạt gạo dài và 4.300 Bah/tấn đối với hạt gạo ngắn. Chính phủ Thái Lan dự
kiến phải mua 500.000 tấn gạo niên vụ 99-2000 trong chương trình can thiệp của
mình.
Mục tiêu của chính sách ngũ cốc mới đươc Chính phủ Trung quốc công bố
vào năm 1999 là nhằm khuyến khích nông dân trồng các giống lúa chất lượng cao
hơn và giảm sản xuất các loại chất lượng kém. Kể từ đầu năm 2000,một số loại
gạo Indian chất lượng kém vụ đầu sẽ không còn được Chính phủ mua theo giá bảo
hộ.
2. Đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo.
2.1. Triển vọng của việc xuất khẩu gạo.
Kinh tế tế thế giới ổn định trong tương lai sẽ làm sản lượng gạo ổn định và
tăng cao đồng thời làm tăng nhu cầu về gạo.
Cho đến nay, nhiều dự báo của IMF, WB, OECD, Viện nghiên cứu Nhận
Bản (JRI) và Viện kinh tế Đức (DIW) đã đưa ra kết luận khả quan rằng, 5 năm đầu
của thế kỷ 21, kinh tế thế giới sẽ phát triển ổn định. Tốc độ tăng GDP bình quân
của thế giới giai đoạn 2001- 2005 sẽ đạt 3,4%/năm. Trong đó, GDP của các nước
công nghiệp phát triển sẽ tăng 5,4%/ năm. Châu á sẽ vẫn là khu vực kinh tế năng
động nhất thế giới với dự báo GDP giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân
6,2%/năm. Theo dự báo của Asia Week, trong những năm 2001- 2005 Việt Nam
sẽ là nước có nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, tăng 7,4%/năm, kế đó là
Trung Quốc, tăng 7,2%/năm. Các nước thuộc ASEAN sẽ duy trì tốc độ tăng
trưởng cao 6,4%/năm, còn GDP của các nước công nghiệp mới Châu á (NICS) dự
đoán sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 5,5%/năm.
Theo đánh gía của IMF, WB, OECD, trong những năm đầu của thế kỷ 21,
kinh tế thế giới phát triển ổn định chủ yếu nhờ vào ba động lực chính. Đó là ứng
dụng khoa học- công nghệ mới, thúc đẩy nhanh hơn tiến trình tự do hoá thương
mại thế giới và gia tăng các liên kết kinh tế quốc tế.
Thế giới thiếu hụt lương thực sẽ làm tăng cầu về gạo và làm tăng kim ngạch
xuất khẩu.
Tổ chức lương thực và nông nghiệp liên hợp quốc (FAO) vừa công bố dự
báo sản lượng lương thực toàn cầu năm 2000-2001 đạt 1.881 triệu tấn, thấp hơn dự
báo FAO đưa ra tháng 6 năm qua là 15 triệu tấn và mức tiêu thụ lương thực được
dự kiến là 1.990 triệu tấn.
Theo FAO, sản lượng lương thực niên vụ 1996-1997 đạt 1.892 triệu tấn, niên
vụ 1997-1998 đạt 1.906 triệu tấn, niên vụ 1998-1999 đạt 1.898 triệu tấn và niên vụ
1999-2000 đạt 1.876 triệu tấn.
Giá gạo sẽ tăng những năm tới:
Về xuất khẩu gạo và tiêu thụ gạo, Đơn vị tình báo kinh tế (EIU) dự báo mức
sản xuất gạo niên vụ 2000-2001 là 369 trệu tấn và nhu cầu tiêu thụ là 404 triệu tấn.
Trong niên vụ 2000-2001 sản xuất là 407 triệu tấn trong khi mức tiêu thụ cần tới
414 triệu tấn. Niên vụ 2002-2003, sản lượng ước tính đạt 417 triệu tấn, nhu cầu
tiêu thụ là 421 triệu tấn. Lượng gạo dự trữ trên toàn cầu vào thời điểm cuối niên
vụ 1999-2000 là 62 triệu tấn, đạt mức dự trữ kỷ lục. Cuối vụ 2001-2002 số gạo dự
trữ trên thế giới sẽ đạt khoảng 47 triệu tấn. Giá gạo dựa trên cơ sở gạo trằng của
Thái Lan, tằng đều trong hai năm 2001-2002, sẽ ở mức 240 USD/ tấn vào cuối
năm 2001, tăng lên 280 USD/tấn vào năm 2002 là 290 USD/tấn và tăng đều trong
hai năm 2001-2002, sẽ ở mức 240 USD/tấn vào cuối năm 2001, tăng lên 280
USD/ tấn vào năm 2002 và 290 USD/tấn vào quý I/2003. Dự báo giá gạo trắng của
Thái Lan trong quý I/2001 là 205 USD/tấn; quý II là 215 USD/tấn; quý III là 230
USD/tấn và quý IV là 240 USD/tấn. Mức giá trung bình của cả năm là 223
USD/tấn.
Theo phó Thủ tướng Kiêm Bộ trưởng thương mại Thái Lan Supachía
Panitchpakdi xuất khẩu gạo của Thái Lan trong năm qua đã vượt quá mức tiêu thụ
do Chính phủ đặt ra về số lựợng và giá trị. Ông cho biết số gạo xuất khẩu của Thái
Lan năm 2000 đạt 6,61 triệu tấn, trị giá 68 tỷ Baht (1,74 tỷ USD), vượt 10% so với
mục tiêu về số lượng đề ra là 6 triệu tấn và tăng 13% so với mức tiêu thụ đề ra
1.55 tỷ USD. Đó là nhờ sự tăng trưởng về xuất khẩu gạo của nước này sang các thị
trường chính như Nigeria, Iran, Senegal, Nam Phi.
Theo ông Supachai, mặc dù kim ngạch xuất khẩu gạo của Thái Lan trong
năm qua thấp hơn so với năm 1999, đạt 6,71 triệu tấn, doanh thu 72,33 tỷ Baht,
nhưng vẫn được coi là một kết quả khả quan bởi vì xuất khẩu gạo trên thế giới
trong năm 2000 đã tăng chậm và giá cả bị giảm. Ông cho hay, trong năm 2001,
Chính phủ Thái Lan cũng đặt ra mức tiêu thụ về xuất khẩu gạo bằng năm
2000.Trước đó, Bộ thương mại Thái Lan đã dự báo mức xuất khẩu gạo của nước
này năm nay sẽ giảm xuống do nhu cầu về gạo ở các thị trường chính, trong đó có
thị trường Mỹ tăng chậm.
Cái đói đang đe doạ tại nhiều nước:
FAO và Chương trình lương thực thế giới (WFP) cảnh báo hiện có khoảng
28 triệu người dân sinh sống ở khu vực Phía nam sa mạc Sahara đang bị đoí chầm
trọng kéo dài và nguyên nhân do hạn hán và nội chiến liên miên từ nhiều năm nay.
Báo cáo lưu ý rằng tình trạng thiếu lương thực sẽ còn tiếp tục kéo dài trong năm
tới, nhất là tại Eritria, Etiopia, Kenia và Sudan. Riêng ở Eritria, hiện có 1,5 triệu
người di tản cùng với 340.000 nông dân sống trong các vùng hạn hán đang bị đói
nghiêm trọng.
Tại Etiopia, có khoảng 10,2 triệu người sống phụ thuộc vào các khoản viện
trợ lương thực từ bên ngoài. Tại Kenia, gần 3,3 triệu người thiếu ăn và trong vụ
thu hoạch 2000-2001 nước này cần nhập thêm khoảng 1,4 triệu tấn lương thực.
Tanzania cũng cần nhập khoảng 690.000 tấn lương thực. ậ vùng Hồ lớn cũng có
khoảng 2 triệu người di tản cần sự giúp đỡ về lương thực. Tại Sudan có hơn 3 triệu
người miền Nam nước này đang bị thiếu lương thực trầm trọng do xung đột dân sự
và hạn hán. Hiện tại các kho lương thực của Sudan đang bị vơi đi nhanh chóng,
trong khi giá cả tăng vọt, gấp 3 lần so với năm ngoái. Trong số 3 triệu người nói
trên có 600.000 người cần viện trợ lương thực khẩn cấp và 2,4 triệu người cần
được viện trợ lương thực vào cuối năm. FAO và EFP ước tính Sudan cần phải
nhập khoảng 1,2 triệu tấn ngũ cốc, trong đó 1 triệu tấn phải mua và 200.000 tấn
viện trợ từ các nước.
Các tổ chức viện trợ quốc tế cho biết tình hình lương thực ở CHDCND Triều
Tiên đang trở nên nghiêm trọng, nhất là ở những khu vực nông thôn miền Bắc. Cơ
quan phát triển nông thôn Hàn Quốc ngày 10/1 cho biết sản lượng ngũ cốc của
CHDCND Triều Tiên đạt 3,59 triệu tấn trong năm 2000, giảm 15% so vơí năm
1999. Theo ước tính của cơ quan này, nhu cầu lương thực hàng năm của
CHDCNH Triều Tiên giảm 12,9% năm 2000, đạt 1,42 triệu tấn năm 2000, sản
lượng ngũ cốc đạt 1,44 triệu tấn, giảm 25%. Tuy nhiên, sản lượng khoai tây và
khoai lang tăng 390.000 tấn, tăng 25,8% nhờ tăng diện tích trồng các loại câu
lương thực phụ.
Cơ chế mới đã tạo ra nhiều thông thoáng tạo đà tăng kim ngạch xuất khẩu.
Việc cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu gạo, xoá bỏ hạn
ngạch, độc quyền liên quan đến việc giữ vững an toàn lương thực, vì vậy nhất định
phải quản lý xuất khẩu gạo bằng thuế xuất khẩu. Mức thuế này hiện nay là 0%.
Việc phân vùng lúa phẩm cấp chất lượng cao, cùng với việc hỗ trợ về vốn, kỹ
thfuật…cho người dân đã có những kết quả đáng khả quan.
Năm 2001, tổng sản lượng lúa cả nước dự kiến cũng sẽ đạt hơn 32 triệu tấn.
Vụ đông- xuân sớm đã bắt đầu thu hoạch, các tỉnh ĐBSCL dự kiến được mùa lớn,
ước đạt khoảng 16,5 triệu tấn. Cân đối lương thực ngoài nhu cầu 1,2 triệu tấn lúa
làm giống và một phần nhỏ phẩm cấp thấp để chế biến làm thức ăn gia súc, lượng
lương thực còn lại dành cho xuất khẩu khá lớn. Trong thống kê kết quả xuất khẩu
gạo năm 2000, tổng công ty lương thực miền Nam xuất khẩu đạt 1.662.113 tấn,
Tổng công ty lương thực miền Bắc xuất khẩu trực tiếp 434.500 tấn, uỷ thác
275.000 tấn. Trong số 44 đầu mối xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp xuất khẩu đạt
180.000-200.000 tấn, gồm có công ty lương thực Vính Long, Tiền Giang, Long
An. Các doanh nghiệp đạt mức 100.000-200.000 tấn gồm các công ty lương thực
Đồng Tháp, An Giang, Sóc Trăng, An Giang, Công ty Afiex, An Giang, nông
trường Sông Hậu. Đạt mức 70.000-80.000 tấn gồm có công ty lương thực Cần Thơ
và CTTNHH nông sản Vĩnh phát. Các công ty liên doanh có vốn ĐTNN xuất
khẩu được 120.000 tấn. Các doanh nghiệp xuất khẩu theo chuyến nhỏ lẻ mới được
13.900 tấn.
2.2. Những tồn tại và những nguyên nhân nó về xuất khẩu gao.
Nhìn lại xuất khẩu gạo năm 2000.
Theo số liệu mới nhất mà Hiệp hội lương thực Việt Nam (gọi tắt là Hiệp hội)
vừa công bố, trong năm 2000 cả nước ta đã xuất khẩu được 3.393.800 tấn gạo (
không kể lượng xuất tiểu ngạch qua biên giới), đạt tổng kim ngạch
615.820.670USD (trên cơ sở giá FOB), các hội viên trong Hiệp hội vẫn chiếm tỷ
trọng cao nhất với 96,15% tổng lượng gạo xuất khẩu, kế đến là các công ty liên
doanh chiếm 3,54%, còn lại chỉ có 0,31% do các doanh nghiệp xuất khẩu khác
thực hiện.
So với năm 1999, lượng gạo xuất khẩu này giảm đến 26% (năm 1999 Việt
Nam xuất 4,56 triệu tấn), và giá bình quân cũng giảm tới 40USD/tấn. Rõ ràng đây
là một kết quả không như mong đợi đối với cả những người sản xuất và cả các
doanh nghiệp xuất khẩu. Trong khi đó, tổng sản lượng lương thực cả nước vẫn
tăng và đạt 35,6 triệu tấn, riêng lúa đạt 32,55 triệu tấn; lũ sớm ở ĐBSCL cũng chỉ
gây tổn thất khoảng 700.000 tấn lúa.
Nhiều giải thích đã được đưa ra, như: hầu hết các