Ở đa số các nước trên thế giới, công ti hợp danh được pháp luật ghi nhận là một loại hình đặc trưng của công ti đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên (đều là cá nhân và là thương nhân) cùng tiến hành hoạt động thương mại (theo nghĩa rộng) dưới một hãng chung (hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty
Theo Luật doanh nghiệp 2005, quan niệm về công ty hợp danh ở nước ta hiện nay còn có một số điểm khác với cách hiểu truyền thống về công ti hợp danh. Theo đó, tại Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005, công ty hợp danh được định nghĩa là một loại hình doanh nghiệp với những đặc điểm pháp lí cơ bản sau:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình cả về các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Như vậy, nếu căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản, thì công ti hợp danh theo Luật doanh nghiệp có thể được chia thành hai loại. Loại thứ nhất là những công ty giống với công ty hợp danh theo pháp luật của các nước, tức là chỉ bao gồm những thành viên hợp danh (chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ti). Loại thứ hai là những công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn (chịu trách nhiệm hữu hạn). Loại công ty này pháp luật các nước gọi là công ti hợp vốn đơn giản (hay hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại hình của công ti đối nhân. Những công ty hợp danh có thành viên góp vốn sẽ tồn tại hai chế độ trách nhiệm trong công ty. Đây là điểm khác biệt cơ bản và rõ ràng nhất để phân biệt công ty hợp danh với các loại hình công ty khác khi mà các công ty đó luôn luôn tồn tại một chế độ trách nhiệm chung và duy nhất cho toàn bộ các thành viên trong công ty. Có thể thấy, khái niệm công ti hợp danh theo Luật Doanh nghiệp của Việt Nam có nội hàm của khái niệm công ty đối nhân theo pháp luật các nước. Với quy định về công ty hợp danh. Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ty đối nhân ở Việt Nam.
Về mặt kĩ thuật pháp lý, Luật doanh nghiệp 2005 không đưa ra được định nghĩa khái quát về công ty hợp danh mà xây dựng khái niệm về công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm của công ty hợp danh, theo ý kiến của em, đây là sự hạn chế trong kĩ thuật xây dựng pháp luật của chúng ta, khi không thể đưa ra được một định nghĩa có tính chất khái quát mà chỉ dừng lại ở việc liệt kê các đặc điểm.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2403 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Luật doanh nghiệp 2005 về công ty hợp danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Khái niệm Công ty hợp danh theo quy định của luật doanh nghiệp 2005
Ở đa số các nước trên thế giới, công ti hợp danh được pháp luật ghi nhận là một loại hình đặc trưng của công ti đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên (đều là cá nhân và là thương nhân) cùng tiến hành hoạt động thương mại (theo nghĩa rộng) dưới một hãng chung (hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty
Theo Luật doanh nghiệp 2005, quan niệm về công ty hợp danh ở nước ta hiện nay còn có một số điểm khác với cách hiểu truyền thống về công ti hợp danh. Theo đó, tại Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005, công ty hợp danh được định nghĩa là một loại hình doanh nghiệp với những đặc điểm pháp lí cơ bản sau:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình cả về các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Như vậy, nếu căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản, thì công ti hợp danh theo Luật doanh nghiệp có thể được chia thành hai loại. Loại thứ nhất là những công ty giống với công ty hợp danh theo pháp luật của các nước, tức là chỉ bao gồm những thành viên hợp danh (chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ti). Loại thứ hai là những công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn (chịu trách nhiệm hữu hạn). Loại công ty này pháp luật các nước gọi là công ti hợp vốn đơn giản (hay hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại hình của công ti đối nhân. Những công ty hợp danh có thành viên góp vốn sẽ tồn tại hai chế độ trách nhiệm trong công ty. Đây là điểm khác biệt cơ bản và rõ ràng nhất để phân biệt công ty hợp danh với các loại hình công ty khác khi mà các công ty đó luôn luôn tồn tại một chế độ trách nhiệm chung và duy nhất cho toàn bộ các thành viên trong công ty. Có thể thấy, khái niệm công ti hợp danh theo Luật Doanh nghiệp của Việt Nam có nội hàm của khái niệm công ty đối nhân theo pháp luật các nước. Với quy định về công ty hợp danh. Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ty đối nhân ở Việt Nam.
Về mặt kĩ thuật pháp lý, Luật doanh nghiệp 2005 không đưa ra được định nghĩa khái quát về công ty hợp danh mà xây dựng khái niệm về công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm của công ty hợp danh, theo ý kiến của em, đây là sự hạn chế trong kĩ thuật xây dựng pháp luật của chúng ta, khi không thể đưa ra được một định nghĩa có tính chất khái quát mà chỉ dừng lại ở việc liệt kê các đặc điểm.
III. Về tư cách pháp lý của công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp 2005
Theo khoản 2 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”
Quy định này thể hiện quan điểm mới của nhà làm luật được chuyển tải trong Luật Doanh nghiệp 2005 so với Luật Doanh nghiệp 1999. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 1999, công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân. Gần 5 năm kể từ ngày Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực, vấn đề tư cách pháp nhân của công ty hợp danh vẫn là một vấn đề được nhiều người quan tâm và bàn cãi.
Có ý kiến cho rằng: việc công ty hợp danh có tư cách pháp nhân là hoàn toàn hợp lý và không có sự mâu thuẫn với khái niệm pháp nhân của Bộ luật dân sự bởi lý do sau đây:
- Thứ nhất, công ty hợp danh có những thành viên phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn nhưng công ty vẫn có tài sản độc lập với những cá nhân, tổ chức khác. Tài sản của công ty hợp danh bao gồm tài sản góp vốn của các thành viên đã chuyền quyền sở hữu cho công ty; tài sản tạo lập được mang tên công ty; tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh doa các thành viên hợp danh thực hiện nhân danh công ty và từ hoạt động kinh doanh các ngành nghề kinh doanh đã đăng kí của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện, các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
- Thứ hai, thực tế cũng không có ảnh hưởng gì về lý luận pháp lý khi thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, vì Bộ luật Dân sự là luật chung, còn Luật Doanh nghiệp là luật chuyên ngành. Vì vậy, cũng có thể coi việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh trong khi Luật doanh nghiệp 2005 vẫn quy định ít nhất hai thành viên chịu trách nhiệm vô hạn là một ngoại lệ của Luật Doanh nghiệp 2005 so với quy định về pháp nhân trong Bộ luật Dân sự.
- Thứ ba, công ty hợp danh cũng có tên gọi, trụ sơ, quốc tịch, sản nghiệp, ý chí và trách nhiệm. Điều đó cho thấy không thể quan niệm công ty hợp danh là một cái gì đó khác hơn pháp nhân. Các thành viên công ty xét về mặt pháp lý là những người bảo lãnh liên đới cho các hoạt động của công ty. Hoàn toàn có sự tách bạch giữa tài sản của công ty và tài sản của các thành viên.
Tuy nhiên, em đồng ý với quan điểm cho rằng, việc quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân là không phù hợp với quy định của Bộ Luật dân sự 2005.
Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
Được thành lập hợp pháp;
Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập
Một trong những yếu tố quan trọng của pháp nhân là phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Nhưng ở công ty hợp danh thì tài sản của công ty không hoàn toàn độc lập với tài sản của các thành viên hợp danh do chế độ trách nhiệm vô hạn mà các thành viên này phải chịu. Khoản 3 Điều 84 Bộ Luật Dân Sự (2005) quy định pháp nhân không những phải có tài sản độc lập với cá nhân tổ chức khác mà pháp nhân còn phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Theo Luật Doanh Nghiệp (2005) khi tài sản của công ty hợp danh không đủ thanh toán thì các thành viên hợp danh còn phải đem tài sản riêng của mình để thanh toán các khoản nợ đến hạn của công ty. Bên cạnh đó, Khoản 3 Điều 93 Bộ Luật Dân Sự (2005) quy định : “Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện”. Bởi vậy, trong trường hợp trên, theo quy định của Luật Doanh Nghiệp (2005) thì rõ ràng thành viên pháp nhân đã phải chịu trách nhiệm dân sự thay pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.Với tư duy tiếp cận như vậy, quan điểm này cho rằng không có sự tách bạch giữa tài sản của công ty và thành viên công ty, cụ thể là thành viên hợp danh. Luật Doanh Nghiệp (2005) thừa nhận công ty hợp danh là một pháp nhân trong khi vẫn quy định chế độ trách nhiệm vô hạn của ít nhất hai thành viên hợp danh đối với các khoản nợ của công ty là chưa nhất quán với quy định về pháp nhân trong Bộ Luật Dân Sự (2005).
III. Quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 về thành viên công ty hợp danh.
Công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Công ty hợp danh ở Việt Nam có thể chỉ có một loại thành viên duy nhất là thành viên hợp danh hoặc có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Theo quy định hiện hành, công ty hợp danh dù có một hay hai loại thành viên đều phải có ít nhất hai thành viên hợp danh. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2005 không quy định số lượng tối thiểu các thành viên góp vốn
1. Thành viên hợp danh
Theo quy định tại khoản 1 Điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 thì thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty và công ty hợp danh bắt buộc phải có ít nhất là hai thành viên hợp danh.
Thành viên hợp danh là những người quyết định sự tồn tại và phát triển của công ti cả về mặt pháp lí và thực tế, vì vậy, Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định khá rõ ràng và cụ thể về quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh. Bên cạnh đó, để bảo vệ lợi ích của công ti, Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005 cũng đã quy định một số hạn chế với quyền của thành viên hợp danh như:
- Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.
Quy định này là một điểm mới của Luật doanh nghiệp 2005 so với Luật doanh nghiệp 1999. Trước đây, Luật doanh nghiệp 1999 cấm tuyệt đối việc thành viên hợp danh đồng thời làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty khác. Quy định này của Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định theo hướng mở, cho phép các thành viên hợp danh có thể thỏa thuận về vấn đề này. Khoản 1 Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.” Nhưng rõ ràng bất cập cũng đã tồn tại từ chính quy định này. Ta có thể xem xét qua ví dụ sau: A, B, và C là thành viên hợp danh của công ty hợp danh X. Được sự động ý của B và C, A đã tham gia vào công ty hợp danh Y với tư cách thành viên hợp danh. Sẽ không có vấn đề gì xảy ra nếu công ty X và công ty Y luôn hoạt động tốt, bất cập chỉ nảy sinh trong trường hợp công ty X và công ty Y cùng phá sản mà A, B và C không đủ tài sản để trang trải mọi khoản nợ của công ty, trong trường hợp này không thể xử lí triệt để nghĩa vụ thanh toán nợ trong hai vụ việc phá sản, vì việc công ty X và công ty Y phá sản là các vụ phá sản độc lập, tình trạng tranh chấp về thầm quyền xử lí tài sản riêng của A để thanh toán các khoản nợ trong hai vụ việc phá sản có thể xảy ra mà không có bất kỳ cách phân định nào có thể thực hiện được
- Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
- Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại.
Theo quy định tại Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005, thành viên hợp danh có quyền rút vốn khỏi công ty nếu được hội đồng thành viên chấp thuận. Như vậy, với quy định này, Luật Doanh nghiệp 2005 đã cho phép các thành viên hợp danh được rút vốn khỏi công ty, đây cũng là một trong những nét khác biệt của pháp luật nước ta so với pháp luật nhiều nước trên thế giới. Nhiều nước trên thế giới coi sự kiện rút vốn của thành viên hợp danh là một trường hợp dẫn đến việc công ty hợp danh chấm dứt hoạt động, ở hầu hết các nước trên thế giới, việc rút vốn khỏi công ty hợp danh của các thành viên hợp danh là rất hạn chế. Thành viên hợp dnah là xương sống của công ty, đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành và quản lý công ty hợp danh. Việc pháp luật hạn chế thành viên hợp danh rút vốn khỏi công ty cũng là điều hợp lý. Tuy nhiên, đứng trước sự phát triển của thời đại mới, việc không cho thành viên hợp danh rút vốn sẽ làm giảm sự phát triển của xã hội cũng như sự phát triển của chính loại hình công ty này, không thể rút vốn khiến cho các thành viên hợp danh không thể linh hoạt trong việc sử dụng đồng vốn của mình một cách có hiệu quả nhất, hạn chế họ đầu tư vào mô hình kinh doanh có lợi hơn. Xuất phát từ đó, việc Luật Doanh nghiệp 2005 cho phép thành viên hợp danh có quyền rút vốn là hợp lí. Bên cạnh đó, để bảo vệ sự ổn định của công ti, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng đã quy định các điều kiện được rút vốn của thành viên hợp danh tại khoản 2 Điều 138: “Trong trường hợp này, thành viên muốn rút vốn khỏi công ty phải thông báo bằng văn bản yêu cầu rút vốn chậm nhất sáu tháng trước ngày rút vốn; chỉ được rút vốn vào thời điểm kết thúc năm tài chính và báo cáo tài chính của năm tài chính đó đã được thông qua.”
Trong quá trình hoạt động của mình, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng cho phép công ty hợp danh có quyền tiếp nhận thêm thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn. Việc tiếp nhận thành viên được quy định tại Điều 139 Luật doanh nghiệp 2005, theo đó, việc tiếp nhận thêm thành viên phải được hội đồng thành viên chấp thuận. Thành viên hợp danh mới được tiếp nhận vào công ti phải cùng liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty (trừ trường hợp có thỏa thuận khác). Quy định này cũng áp dụng đối với người thừa kế của thành viên hợp danh. Điều này có nghĩa là khi thành viên hợp danh chết hoặc tòa án tuyên bố là đã chết thì người thừa kế của họ không đương nhiên trở thành thành viên hợp danh của công ty. Họ chỉ trở thành thành viên của công ty nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận
2. Thành viên góp vốn
Theo quy định tại Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005, công ty hợp danh có thể có thành viên góp vốn, thành viên góp vốn có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ti trong phạm vi số vôn đã cam kết góp vào công ty. Là thành viên của công ty đối nhân nhưng thành viên góp vốn của công ty hợp danh lại hưởng chế độ trách nhiệm tài sản như một thành viên của công ty đối vốn. Chính điều này là lí do cơ bản dẫn đến thành viên góp vốn có thân phận pháp lí khác với thành viên hợp danh. Quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn được quy định tại Điều 140 Luật doanh nghiệp 2005, theo đó bên cạnh những thuận lợi được hưởng từ chế độ trách nhiệm hữu hạn, thành viên góp vốn bị hạn chế những quyền cơ bản của công ty hợp danh: thành viên góp vốn không được tham gia vào quan lí công ty, không được hoạt động kinh doanh nhân danh công ty.
Liên quan đến vấn đề giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh, Luật Doanh nghiệp 2005 hiện đang có sự mâu thuẫn giữa điểm c khoản 1 Điều 130 với khoản 3 Điều 131 và khoản 2 Điều 140:
Theo Điểm c Khoản 1 Điều 130 Luật Doanh Nghiệp (2005) trách nhiệm của thành viên góp vốn đối với các khoản nợ của công ty được giới hạn trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty: “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty”. Tuy nhiên, với quy định tại Khoản 3 Điều 131 và Điểm a Khoản 2 Điều 140 Luật Doanh Nghiệp (2005), thành viên công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp: “trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty” (khoản 3 Điều 131); “thành viên góp vốn có các nghĩa vụ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp” (điểm a khoản 2 Điều 140). Rõ ràng, các quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 đã không nhất quán trong các quy định về giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh dấn đến cách vận dụng khác nhau trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Theo nguyên tắc áp dụng pháp luật riêng, luật chuyên ngành được ưu tiên áp dụng trước luật chung, Điều 131 và Điều 140 Luật Doanh Nghiệp 2005 là những điều luật cần được ưu tiên áp dụng trước Điều 130 Luật Doanh Nghiệp 2005. Theo đó, các thành viên góp vốn sẽ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Tuy nhiên, vận dụng các nguyên tắc áp dụng luận để lựa chọn điều luật áp dụng trong trường hợp này cũng chỉ là giải pháp tình thế. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung Luật Doanh Nghiệp 2005 để đảm bảo tính nhất quán về nội dung pháp lý này.
IV. Quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 về vốn của công ty hợp danh
Là một loại hình công ti đối nhân, công ty hợp danh không được phép phát hành bất kì loại chứng khoán nào trong công chúng. Khi thành lập công ty, các thành viên phải góp vốn vào vốn điều lệ của công ty. Số vốn mà mỗi thành viên cam kết góp vào công ty phải được ghi rõ trong điều lệ công ty. Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh có thể tăng số vốn điều lệ bằng cách tăng phần vốn góp của các thành viên công ty hoặc kết nạp thành viên mới vào công ty theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty
Theo quy định tại Điều 132 Luật Doanh nghiệp 2005, tài sản của công ty hợp danh bao gồm: tài sản góp vốn của các thành viên đã chuyển quyền sở hữu cho công ty; tài sản tạo lập được mang tên công ty, tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh thực hiện nhân danh công ty và từ hoạt động kinh doanh các ngành nghề kinh doanh đã đăng kí của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện, các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Vấn đề chuyển nhượng phần vốn góp giữa thành viên hợp danh và thành viên góp vốn cũng khác nhau. Với thành viên góp vốn, việc chuyền nhượng phần vốn góp của họ rất dễ dàng và không bị hạn chế. Thực chất thành viên hợp danh chỉ quan tâm đến vốn của thành viên góp vốn nên pháp luật cho phép loại thành viên này được quyền tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình. Tuy nhiên pháp luật không cho phép thành viên hợp danh chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góc của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự đồng ý của các thành viên còn lại, quy định này là hoàn toàn hợp lý. Công ty hợp dnah được thành lập dựa trên sự tin tưởng lẫn nhâu giữa các thành viên hợp danh. Giữa họ yếu tố nhân thân mới là quan trọng. Nếu chấp nhận việc tự do chuyển đổi phần vốn góp của thành viên hợp danh sẽ dẫn đến tình trạng các thành viên hợp danh còn lại buộc phải tiếp nhận một thành với hợp danh mới mà mình có thể không hiểu rõ về nhân thân người đó, việc này đi ngược với bản chất đối nhân của công ty hợp danh
Về vấn đề phát hành chứng khoán. Hiện nay, theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, công ty hợp danh không được phép phát hành bất kì một loại chứng khoán nào. Khoản 3 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào”. Điều này bắt nguồn từ tính đối nhân của công ty hợp danh. Đối với các công ty đối nhân nói chung và công ty hợp danh nói riêng, yếu tố nhân thân là yếu tố được coi trọng hàng đầu. Người ta hợp tác với nhau, chấp nhận chế độ trách nhiệm vô hạn vì họ tin tưởng lẫn nhau và đa phần là họ đã quen biết nhau từ trước. Sự hùn vốn trong công ty hợp danh chỉ là thứ yếu. Nếu công ty phát hành cổ phiếu như công ty cổ phần, công ty hợp danh sẽ có thêm nhiều chủ sở hữu cùng có quyền quản lý công ty. Như vậy, tính chất “đóng” của công ty hợp danh không còn nữa. Hơn nữa, công ty hợp danh với chế độ trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh rất dễ dàng vay vốn ngân hàng, thêm vào đó, công ty hợp danh là mô hình công ty vừa và nhỏ. Vì vậy, công ty hợp danh không cần phải huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán. Tuy nhiên, việc pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành trái phiếu là không công bằng với loại hình công ty này. Nội dung pháp lý này có thể là phù hợp trong ngữ cảnh Luật Doanh nghiệp 1999 khi mà thời điểm đó công ty hợp danh không được thừa nhận là một pháp nhân. Khi luật doanh nghiệp 2005 đã thừa nhận công ty hợp danh là một pháp nhân mà vẫn cấm công ty này phát hành các loại chứng khoán là vấn đề cần được bàn luận.
Nguyên nhân của sự khác nhau về quyền phát hành chứng khoán giữa công ty hợp danh với các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp (2005) xuất phát từ tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh. Thực tế, lý do này là chưa thỏa đáng. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ty cho chủ sỡ hữu cổ phần là các cổ đông. Trái phiếu đem lại quyền cho chủ sở hữu trái phiếu đó, họ trở thành chủ nợ của công ty và việc phát hành trái phiếu chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Do vậy, việc pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành cổ phiếu là hoàn toàn phù hợp với bản chất của loại hình công ty này. Nhưng việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng không ảnh hưởng đến tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp