Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên chủ thể tham gia hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng hoạt động một cách an toàn, lành mạnh, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các quy định pháp luật để xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, các quy định này đã bộc lộ nhiều bất cập, không phù hợp với thực tiễn nền kinh tế của nước ta.
- Quy định về quy chế cho vay:
Về mặt hình thức, hiện nay quy chế cho vay được ban hành bằng một quyết định của Thống đốc NHNN. Tuy nhiên các văn bản về bảo đảm tiền vay, về giao dịch bảo đảm lại được ban hành dưới hình thức Nghị định. Do đó, quy chế cho vay vừa có hiệu lực pháp lý thấp hơn, vừa chưa đảm bảo được sự tương thích với các văn bản pháp luật có liên quan này.
Quy định về lãi suất áp dụng đối với các khoản nợ quá hạn được thỏa thuận tối đa không quá 150% (khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay 1627) thiếu cụ thể, phản ánh không đúng bản chất của chế tài tín dụng đối với khách hàng vay không trả nợ đúng hạn. Bởi vì, các TCTD có thể thỏa thuận với khách hàng một lãi suất quá hạn bằng lãi suất cho vay trong hạn.
Ở đây, ta thấy đòi hỏi đặt ra là phải có hệ thống pháp luật đồng bộ và cụ thể từ những nhà làm luật.
- Việc nhà nước ấn định trần lãi suất huy động, không giúp nhiều cho việc hạn chế rủi ro trong hệ thống và cũng không đảm bảo lãi suất thực dương để chống lạm phát. Mặt khác, việc thả nổi lãi suất cho vay tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đẩy lãi suất cho vay lên cao, gây áp lực nặng nề lên các chủ thể đi vay, đặc biệt là các doanh nghiệp. Từ đó ta thấy sự cần thiết của việc Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất trần cho vay bên cạnh lãi suất trần huy động. Nếu NHNN đưa ra được mức lãi suất trần hợp lý thì cả đôi bên đều có lợi, phía tổ chức tín dụng sẽ tính toán để sau khi trừ các chi phí, lạm phát thì vẫn có lãi, phía doanh nghiệp cũng không bị ép khi đi vay.Mức lãi suất trần cho vay này nếu quá thấp thì lãi suất huy động vốn cũng thấp, lại khó thu hút được vốn.
- Cần sửa đổi một số quy định về cho vay không có tài sản bảo đảm vì khi tổ chức tín dụng cho vay không có tài sản bảo đảm, pháp luật không có quy định cụ thể về trách nhiệm của bên đứng ra bảo lãnh, tín chấp, rất dễ gặp rủi ro.
Đối với trường hợp TCTD cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ, các nhà làm luật nên quy định rõtrong trường hợp khách hàng không trả được nợ , chính phủ sẽ đóng vai trò là người bảo lãnh đứng ra trả nợ cho bên vay, đảm bảo việc thu hồi vốn của TCTD.
Trường hợp TCTD cho vay theo tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội cũng cần quy định trách nhiệm cụ thể của các tổ chức đứng ra bảo lãnh và các phương thức để xử lý khi TCTD không thu được nợ từ cá nhân, hộ gia đình nghèo đã vay vốn.
Khi trách nhiệm trả nợ được đảm bảo, các TCTD sẽ không còn e dè trong việc cấp vốn vay cho các đối tượng được bảo lãnh. Theo đó, những chính sách kinh tế, xã hội mà Nhà nước đặt ra sẽ được thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả hơn.
- Cần điều chỉnh lại các đối tượng cấm cho vay.
Việc quy định các đối tượng cấm cho vay theo Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng 2010 đã vô hình chung gạt bỏ những khách hàng tiềm năng của các TCTD. Mặt khác, trên thực tế , mục đích cấm cho vay đối với các đối tượng đó là làm lành mạnh quan hệ cho vay, tránh trường hợp các cá nhân đó tư lợi không được thực hiện triệt để. Bởi lẽ, bằng cách này hay cách khác, nguồn vốn vẫn được chuyển đến tay các đối tượng này dưới các hình thức trá hình khác nhau mà pháp luật không kiểm soát được. Chính vì vậy, pháp luật cần sửa đổi các quy đinh về các đối tượng thuộc diện cấm cho vay, theo đó, cha mẹ, vợ chồng, con của thành viên ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) và các chức danh tương đương vẫn có quyền vay vốn nếu họ đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn mà pháp luật quy định.
- Cần thống nhất lại các văn bản pháp luật về vấn đề xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất.
Do sự mâu thuẫn trong quy định xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất trong trường hợp các bên không có thỏa thuận giữa Luật đất đai 2003 và Bộ luật dân sự 2005 nên trong việc phát mại tài sản để thu hồi nợ của TCTD gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, trước hết phải thống nhất các quy định về phương thức xử lý tài sản đảm bảo giữa hai văn bản pháp luật trên. Đồng thời, TCTD sẽ được phép bán đấu giá tài sản đó một cách công khai để tiết kiệm thời gian và chi phí, trong trường hợp bên vay thấy bất hợp lý thì có thể khởi kiện ra tòa án.
- Cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về đảm bảo tiền vay theo hướng thống nhất hóa các quy định và quan tâm hơn đến lợi ích kinh doanh của khách hàng. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về đảm bảo tiền vay chưa được thiết kế theo một hệ thống thống nhất, còn tản mạn, trùng lặp, chồng chéo.
Từ những lý do trên, nhất thiết phải củng cố chế định sở hữu tài sản trong BLDS 2005, ban hành các văn bản dưới luật để hỗ trợ cho các quy định bảo đảm quyền vay. Đồng thời, đối với những tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải có quy định cụ thể về đăng ký quyền sở hữu khi chuyển nhượng tài sản (như làm thủ tục sang tên chính chủ đối với tài sản)
20 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3057 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG.
1. Khái quát về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.
1.1. Khái niệm hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.
Cho vay là hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội loài người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Khái niệm cho vay, theo định nghĩa chung nhất được hiểu là việc một người thỏa thuận để cho người khác được quyền sử dụng tài sản của mình (vật cùng loại) trong một thời gian nhất định với điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình đối với người đó.
Theo quy định của pháp luật, cho vay được định nghĩa tại khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2010 “cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Cho vay theo quy định của pháp luật chính là một trong những hình thức cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng hiện nay, và là một hoạt động mang tính chất nghề nghiệp kinh doanh các tổ chức tín dụng. Khi thực hiện hoạt động cấp tín dụng cho khách hàng của mình, các tổ chức tín dụng sẽ giao cho khách hàng một khoản tiền nhất định hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền nhất định để sử dụng theo hợp đồng tín dụng đã được kí kết giữa các bên để khách hàng sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc là hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
* Đặc điểm hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng:
- Thứ nhất, trong hoạt động cho vay thì luôn luôn xuất hiện hai bên chủ thể tham gia vào hoạt động cho vay đó là chủ thể đi vay và chủ thể cho vay. Trong quan hệ cho vay này thì chủ thể cho vay chính là các tổ chức tín dụng được phép cấp tín dụng theo quy định của pháp luật, và chủ thể đi vay là các khách hàng có nhu cầu vay vốn tại các tổ chức tín dụng.
- Thứ hai, hình thức pháp lí của việc cho vay chính là hợp đồng tín dụng, ghi nhận sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng với khách hàng có nhu cầu vay vốn tại các tổ chức tín dụng.
- Thứ ba, sự kiện cho vay luôn phát sinh bởi hành vi ứng trước và hành vi hoàn trả. Hành vi ứng trước luôn do chủ thể đó là bên cho vay thực hiện, và hành vi hoàn trả được thực hiện bởi chủ thể đó là bên vay sau một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng tín dụng.
Ngoài những đặc điểm chung về hoạt động cho vay như đã phân tích ở trên thì hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng còn có những đặc điểm riêng sau đây:
- Thứ nhất, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là một hoạt động mang tính chất nghề nghiệp kinh doanh, hoạt động cho vay là một trong những nghiệp vụ chính mà các tổ chức tín dụng thực hiện thường xuyên và chuyên nghiệp.
- Thứ hai, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là nghề kinh doanh có điều kiện.
- Thứ ba, vì tính chất rủi ro trong hoạt động tín dụng rất lớn và mang tính chất dây chuyền có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế - xã hội nên ngoài việc phải tuân thủ theo các quy định chung của pháp luật về hợp đồng trong dân sự, hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng phải tuân theo sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật ngân hàng và các tập quán thương mại về ngân hàng để đảm bảo an toàn cho bên cho vay là các tổ chức tín dụng.
1.2. Phân loại hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng hiện nay có thể phân loại dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau:
* Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn vay.
- Cho vay ngắn hạn: đây là hình thức cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng mà trong đó thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận không quá một năm, hình thức vay vốn này thường là để đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thời gian ngắn.
- Cho vay dài hạn: Đây là hình thức cho vay mà trong đó thời hạn sử dụng vốn do các bên thỏa thuận với thời hạn trên một năm trở lên, hình thức vay vốn này thường để đáp ứng nhu cầu trong thời gian dài.
* Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay.
- Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức vay mà nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền vay do tổ chức tín dụng cấp cho bên vay được bảo đảm bằng một tài sản nhất định của bên vay hoặc của người thứ ba. Trong trường hợp này thì giữa khách hàng vay vốn (hoặc người thứ ba) và tổ chức tín dụng sẽ phải kí kết cả 2 loại hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay, các bên có thể thỏa thuận thành lập thành một hợp đồng chung.
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: đây là hình thức vay trong đó nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền vay do tổ chức tín dụng cấp cho bên vay không được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ 3. Các bên sẽ chỉ kí kết duy nhất một hợp đồng đó là hợp đồng tín dụng.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn.
- Cho vay kinh doanh: đây là hình thức cho vay mà vốn vay được bên vay cam kết sử dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của mình.
- Cho vay tiêu dùng: đây là hình thức cho vay mà trong đó bên vay cam kết sử dụng vốn vay vào mục đích thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua nhà cửa, phương tiện đi lại, học tập…
* Căn cứ vào phương thức cho vay.
- Cho vay từng lần.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng.
- Cho vay theo dự án đầu tư.
- Cho vay hợp vốn.
- Cho vay trả góp.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi.
1.3. Ý nghĩa của hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.
* Đối với tổ chức tín dụng.
Vai trò quan trọng nhất của hoạt động cho vay đối với tổ chức tín dụng là tạo nguồn lợi nhuận lớn và lâu dài, giúp duy trì và phát triển. Việc mở rộng hoạt động cho vay có vai trò tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển của ngân hàng cả về quy mô cũng như chất lượng hoạt động.
* Đối với chủ thể đi vay.
Thông qua việc đi vay khách hàng có được nguồn vốn cần thiết để phục vụ cho các mục đích kinh doanh của mình. Việc cung cấp kịp thời nguồn vốn giúp hoạt động kinh doanh diễn ra đúng dự định. Giúp khách hàng nắm bắt tốt các cơ hội kinh doanh mang lại lợi nhuận.
* Đối với nền kinh tế.
Đáp ứng nhu cầu về vốn của những người có phương án kinh doanh tốt. Trong đó, hoạt động cho vay là vô cùng quan trọng đối với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu về vốn tham gia, mở rộng sản xuất mang lại lợi nhuận cho chính họ và sự phát triển xã hội.
Trong xã hội, các cá nhân, tổ chức luôn đối mặt với sự thiếu vốn phục vụ cho các dự định của họ. Việc tổ chức tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn một cách kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển, đặc biệt việc cho vay đối với một số ngành kinh tế theo chỉ thị của Chính phủ đã giúp nền kinh tế phát triển cân đối, bền vững.
Thông qua hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, các vùng, địa phương kém phát triển có nguồn để xây dựng các công trình công cộng; các cá nhân, hộ gia đình nghèo có thể vay nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh, làm kinh tế... Một số các ưu đãi về lãi suất đối với một số ngành nghề kinh doanh là nằm trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành đó.
2. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức tín dụng cấp tín dụng cho khách hàng thông qua nghiệp vụ cho vay. Theo đó, pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng bao gồm bộ phận pháp luật điều chỉnh các chủ thể tham gia vào quan hệ cho vay; điều chỉnh hình thức pháp lý của hoạt động cho vay – là hợp đồng tín dụng; điều chỉnh hình thức pháp lý của hoạt động cho vay – là hợp đồng tín dụng; và các biện pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng nhất thiết phải được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật vì:
- Xuất phát từ vị trí của hoạt động cho vay. Đây được coi là hoạt động rất quan trọng của tổ chức tín dụng. Vì nó tạo ra nguồn lợi duy trì hoạt động của tổ chức tín dụng.
- Hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn. Tính rủi ro này bắt nguồn từ đặc thù của đối tượng nghiệp vụ cho vay là tiền tệ - một loại hàng hóa có tính nhạy cảm và rủi ro cao. Việc thu hồi vốn của tổ chức tín dụng thường phải phụ thuộc vào khả năng kinh doanh và thiện chí trả nợ cảu khách hàng.
Từ những lý do trên, việc cần thiết là phải tạo ra một hành lang pháp lý để kiểm soát, đảm bảo an toàn cho hoạt động cho vay nói riêng và hoạt động ổn định của các tổ chức tín dụng nói chung. Đồng thời ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể tham gia quan hệ cho vay. Đồng thời tạo ra cho tổ chức tín dụng những lá chắn để tránh khỏi những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế.
II. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
1. Chủ thể tham gia quan hệ cho vay.
Việc quy định các điều kiện chủ thể đối với bên vay và bên cho vay không chỉ nhằm tạo cơ sở pháp lí cho sự đánh giá hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mà còn góp phần nâng cao kĩ năng giao tiếp hợp đồng tín dụng cũng như củng cố kỉ luật hợp đồng đối với các chủ thể tham gia giao dịch cho vay.
1.1. Bên cho vay.
Trong quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, bên cho vay thông thường là tổ chức tín dụng có đủ những điều kiện do pháp luật quy định. Ngoài ra, các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng nếu được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện hoạt động tín dụng thì cũng có thể là bên cho vay và cũng phải thỏa mãn các điều kiện chủ thể giống như đối với bên cho vay là tổ chức tín dụng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở thành chủ thể cho vay phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
- Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
- Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng.
Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành chủ thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều kiện như có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động ngân hàng đươc phép thực hiện.
Việc pháp luật quy định những điều kiện này đối với bên cho vay không chỉ góp phần hạn chế, loại trừ những tổ chức tín dụng không đủ tiêu chuẩn kinh doanh trên thương trường, góp phần lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng và bảo về quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, mà còn là căn cứ để các luật gia hay các thẩm phán, trọng tài viên tiến hành thẩm định và đánh giá một cách khách quan vấn đề hiệu lực pháp lí của hoạt động tín dụng.
1.2. Bên vay.
Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc, những điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi hợp đồng tín dụng):
- Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ chức là pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết hợp đồng tín dụng;
- Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện riêng sau (những điều kiện này chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả thuận rõ trong hợp đồng tín dụng):
- Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết;
- Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả;
- Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
Tóm lại, việc pháp luật quy định các điều kiện chủ thể đối với bên cho vay và bên đi vay trong hợp đồng tín dụng, ngoài mục đích thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động tín dụng còn có ý nghĩa là giải pháp nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
2. Hình thức pháp lý của hoạt động cho vay – hợp đồng tín dụng.
Theo quy định của pháp luật hiên hành, quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng được xác lập và thực hiện thông qua công cụ pháp lí là hợp đồng tín dụng.
2.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng (bên vay, tổ chức, cá nhân) nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín dụng (bên cho vay) chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay) sử dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả khoản tiền đó (tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định.
* Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
- Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản.
- Nội dung hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận cho bên vay sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả dựa trên sự tín nhiệm.
- Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện luật định, còn bên vay có thể là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn do pháp luật quy định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao gồm tiền mặt và bút tệ.
- Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho vay. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
- Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
2.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng:
* Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay:
- Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng hạn và địa điểm cho khách hàng vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).
- Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng.
- Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có).
* Quyền và nghĩa vụ của bên vay:
- Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi ký kết, thực hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng.
- Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc các vi phạm hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
- Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp đồng tín dụng và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).
2.3. Hình thức hợp đồng tín dụng.
Theo quy định tại điều 17 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì những ưu điểm sau đây:
- Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong trường hợp cần thiết.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. Các hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch.
2.4. Nội dung hợp đồng tín dụng.
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín dụng.
Theo quy định tại điều 17 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, nội dung của hợp đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
- Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực.
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn.
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
- Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế, các bên phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng (trả góp) hay là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay được thỏa thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ.
- Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản này trong hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
- Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành một hợp đồng phụ đính kèm theo hợp đồng chính.
2.5. Quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng.
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
* Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
- Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín dụng để xem xét, thẩm định và được coi như bằng