Đầu tư là một lĩnh vực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà mục tiêu phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt được đặt lên hàng đầu, cùng với sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia, vấn đề là làm sao để thu hút đầu tư, đặc biệt là FDI và phát huy mọi tiềm lực trong và ngoài nước là vấn đề sống còn. Nhận thức rõ vai trò của FDI, tất cả các nước trên thế giới đều nghiên cứu để đề ra một chế độ pháp lý về FDI cho phù hợp. Nhà nước với vai trò thiết kế và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội đã sử dụng pháp luật - một công cụ rất hữu hiệu để thống nhất và định hướng cho hoạt động FDI. Một môi trường đầu tư hấp dẫn ngoài các yếu tố kinh tế còn có các yếu tố chính trị, pháp luật phải ổn định và đồng bộ. Vì thế, pháp luật đóng một vai trò rất quan trọng trong các hoạt động FDI, là công cụ thiết yếu và tiên quyết cho hoạt động này diễn ra có hiệu quả.
Việt Nam sau thời kỳ cải cách và mở cửa, cùng những đổi mới căn bản trong nhận thức và đường lối chính sách ĐTNN và nhất là FDI đã đạt được nhiều thành tích. Luật Đầu tư năm 2005 ra đời đúng lúc với những quy định về FDI hấp dẫn cùng một thị trường đầu tư giàu tiềm năng đã đẩy nhanh tốc độ phát triển đất nước. Đồng thời với đường lối đối ngoại của Nhà nước ta là đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ, hội nhập với cộng đồng quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, ý chí tự lực tự cường, nhờ một phần ngoại lực để hỗ trợ cho nội lực phát huy. Vì thế, ngoài việc phải có các biện pháp bảo đảm FDI, nhà nước cũng phải dành cho FDI những ưu đãi, khuyến khích nhằm tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài, góp phần phát triển kinh tế xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh
Tuy vậy trên thực tế, nguồn FDI ở nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế cũng như chưa tương xứng với tiềm lực về thu hút FDI của Việt Nam. Phải chăng những biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI của nhà nước ta vẫn chưa thực sự hấp dẫn, chưa lôi kéo các nhà ĐTNN, chưa tạo ra được một sân chơi bình đẳng và vẫn còn phân biệt đối xử đầu tư trong nước và ĐTNN, mà đặc biệt là FDI? Đây cũng chính là lý do em chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” nhằm đánh giá sự phát triển của pháp luật Việt Nam trong các quy định về những biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI tại Việt Nam, qua đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm làm cho hoạt động này đạt được hiệu quả cao hơn.
Trong khóa luận này, tác giả hướng tới nghiên cứu một cách cơ bản về sự hình thành, phát triển của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI và thực trạng FDI tại Việt Nam.Phân tích cơ sở khách quan: bao gồm cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của các hoạt động FDI trong những năm qua. Nhận thức rõ thực trạng và giải pháp cần thiết thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Khóa luận là:
- Nghiên cứu cơ sở pháp lý của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI trong khuôn khổ các quy định của Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Nghiên cứu thực trạng và giải pháp về các biện pháp nhằm thu hút FDI tại Việt Nam.
Với đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu như vậy, phương pháp nghiên cứu chủ đạo được tác giả sử dụng trong Khóa luận là các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, còn sử dụng các số liệu về phát triển kinh tế và số liệu về phát triển FDI cũng như các sự kiện mang tính lịch sử cho bước ngoặt phát triển kinh tế của Việt Nam.
Về ý nghĩa khoa học và thực tiễn, Khóa luận sẽ làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI. Giúp chúng ta hiểu hơn nữa về bảo đảm và khuyến khích FDI tại Việt Nam, thấy đuợc thực trạng thu hút và sử dụng FDI của nước nhà, qua đó sẽ cho một cái nhìn đúng đắn, tổng thể về tình hình kinh tế và đề ra chiến lược thích hợp về FDI trong thời gian tới.
Khóa luận còn nêu lên một số vấn đề đặt ra, chỉ ra mối liên hệ và tác động qua lại của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI với thực trạng FDI ở Việt Nam, từ đó đưa ra ý kiến đề xuất là những việc cần thiết phải làm trong thời gian tới nhằm đẩy mạnh việc thu hút FDI, đưa đất nước phát triển.
Trên cơ sở đó, ngoài phần Mục lục, Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của Khóa luận gồm có 3 chương
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI
Chương II: Thực trạng của pháp luật Việt Nam về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI.
Chương III: Tình hình đầu tư FDI tại Việt Nam trong những năm gần đây, phương hướng giải pháp và kiến nghị nhằm thu hút FDI tại Việt Nam trong thời gian tới.
66 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2128 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư là một lĩnh vực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà mục tiêu phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt được đặt lên hàng đầu, cùng với sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia, vấn đề là làm sao để thu hút đầu tư, đặc biệt là FDI và phát huy mọi tiềm lực trong và ngoài nước là vấn đề sống còn. Nhận thức rõ vai trò của FDI, tất cả các nước trên thế giới đều nghiên cứu để đề ra một chế độ pháp lý về FDI cho phù hợp. Nhà nước với vai trò thiết kế và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội đã sử dụng pháp luật - một công cụ rất hữu hiệu để thống nhất và định hướng cho hoạt động FDI. Một môi trường đầu tư hấp dẫn ngoài các yếu tố kinh tế còn có các yếu tố chính trị, pháp luật phải ổn định và đồng bộ. Vì thế, pháp luật đóng một vai trò rất quan trọng trong các hoạt động FDI, là công cụ thiết yếu và tiên quyết cho hoạt động này diễn ra có hiệu quả.
Việt Nam sau thời kỳ cải cách và mở cửa, cùng những đổi mới căn bản trong nhận thức và đường lối chính sách ĐTNN và nhất là FDI đã đạt được nhiều thành tích. Luật Đầu tư năm 2005 ra đời đúng lúc với những quy định về FDI hấp dẫn cùng một thị trường đầu tư giàu tiềm năng đã đẩy nhanh tốc độ phát triển đất nước. Đồng thời với đường lối đối ngoại của Nhà nước ta là đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ, hội nhập với cộng đồng quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, ý chí tự lực tự cường, nhờ một phần ngoại lực để hỗ trợ cho nội lực phát huy. Vì thế, ngoài việc phải có các biện pháp bảo đảm FDI, nhà nước cũng phải dành cho FDI những ưu đãi, khuyến khích nhằm tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài, góp phần phát triển kinh tế xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh…
Tuy vậy trên thực tế, nguồn FDI ở nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế cũng như chưa tương xứng với tiềm lực về thu hút FDI của Việt Nam. Phải chăng những biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI của nhà nước ta vẫn chưa thực sự hấp dẫn, chưa lôi kéo các nhà ĐTNN, chưa tạo ra được một sân chơi bình đẳng và vẫn còn phân biệt đối xử đầu tư trong nước và ĐTNN, mà đặc biệt là FDI? Đây cũng chính là lý do em chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” nhằm đánh giá sự phát triển của pháp luật Việt Nam trong các quy định về những biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI tại Việt Nam, qua đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm làm cho hoạt động này đạt được hiệu quả cao hơn.
Trong khóa luận này, tác giả hướng tới nghiên cứu một cách cơ bản về sự hình thành, phát triển của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI và thực trạng FDI tại Việt Nam.Phân tích cơ sở khách quan: bao gồm cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của các hoạt động FDI trong những năm qua. Nhận thức rõ thực trạng và giải pháp cần thiết thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Khóa luận là:
Nghiên cứu cơ sở pháp lý của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI trong khuôn khổ các quy định của Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Nghiên cứu thực trạng và giải pháp về các biện pháp nhằm thu hút FDI tại Việt Nam.
Với đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu như vậy, phương pháp nghiên cứu chủ đạo được tác giả sử dụng trong Khóa luận là các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, còn sử dụng các số liệu về phát triển kinh tế và số liệu về phát triển FDI cũng như các sự kiện mang tính lịch sử cho bước ngoặt phát triển kinh tế của Việt Nam.
Về ý nghĩa khoa học và thực tiễn, Khóa luận sẽ làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI. Giúp chúng ta hiểu hơn nữa về bảo đảm và khuyến khích FDI tại Việt Nam, thấy đuợc thực trạng thu hút và sử dụng FDI của nước nhà, qua đó sẽ cho một cái nhìn đúng đắn, tổng thể về tình hình kinh tế và đề ra chiến lược thích hợp về FDI trong thời gian tới.
Khóa luận còn nêu lên một số vấn đề đặt ra, chỉ ra mối liên hệ và tác động qua lại của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI với thực trạng FDI ở Việt Nam, từ đó đưa ra ý kiến đề xuất là những việc cần thiết phải làm trong thời gian tới nhằm đẩy mạnh việc thu hút FDI, đưa đất nước phát triển.
Trên cơ sở đó, ngoài phần Mục lục, Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của Khóa luận gồm có 3 chương
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI
Chương II: Thực trạng của pháp luật Việt Nam về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI.
Chương III: Tình hình đầu tư FDI tại Việt Nam trong những năm gần đây, phương hướng giải pháp và kiến nghị nhằm thu hút FDI tại Việt Nam trong thời gian tới.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI, CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Khái niệm đầu tư
Đầu tư là một trong những yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Thông qua hoạt động đầu tư, quốc gia có thể huy động được rất nhiều nguồn lực trong và ngoài nước về vốn, về công nghệ, kỹ thuật… để đẩy mạnh tốc độ phát triển đất nước.
Như vậy, có thể hiểu đầu tư chính là việc bỏ vốn dưới mọi hình thức vào sản xuất kinh doanh trên cơ sở tính toán lợi ích kinh tế - xã hội.
Cơ sở đầu tiên để một hoạt động đầu tư diễn ra chính là vốn. Nhà đầu tư có thể sử dụng các loại vốn sau để đầu tư:
Tiền, vàng, chứng khoán chuyển nhượng được;
Nhà xưởng công trình xây dựng, thiết bị máy móc, các phương tiện sản xuất kinh doanh khác;
Giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
Giá trị quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ;
Các tài sản hợp pháp khác.
Cũng theo khái niệm trên thì hoạt động đầu tư luôn luôn hướng tới một mục đích nào đó, có thể là mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế xã hội nói chung. Tuy hoạt động đầu tư mang mục đích nào chăng nữa thì nó luôn luôn có vai trò và tầm quan trọng rất lớn đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư. Đối với các quốc gia phát triển, đầu tư và nhất là đầu tư ngoài nước có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội như thất nghiệp, lạm phát… Đối với các quốc gia kém phát triển và các quốc gia đang phát triển, đầu tư càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài, giúp các nước này tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giải quyết các vấn đề xã hội, đồng thời tăng thu ngân sách nhà nước.
Trên tinh thần đó, khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005 cũng quy định: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI là một hoạt động quốc tế, vì bản chất của nó là việc di chuyển vốn từ nước này sang nước khác và do các chủ đầu tư trực tiếp thực hiện. Thị trường của FDI không chỉ bó hẹp trong phạm vi của một quốc gia mà còn có tính quốc tế, thị trường của mỗi quốc gia là một bộ phận trong toàn bộ thị trường thế giới. Để mở rộng và đa dạng hoá các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thu hút đầu tư. Hoạt động FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng trong toàn bộ chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước ta.
Trong những năm qua, FDI ngày càng được thừa nhận là kênh đầu tư quan trọng và chủ yếu nhất trong đầu tư nước ngoài, là giải pháp quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển nội sinh của nền kinh tế nước nhà. Cho đến nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về FDI.
Theo Luật giúp nước ngoài 1961 của Hoa Kỳ thì: “Đầu tư là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một bên do các công dân hoặc công ty bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp”.
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund - IMF), FDI là “hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi ích lâu dài của nhà đầu tư tại một DN ở một nước khác với nước của nhà đầu tư, trong đó nhà đầu tư phải có vai trò, có ý nghĩa quyết định trong quản lý DN” [22, tr.156].
Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic Cooperation and Development - OECD), FDI được hiểu theo nghĩa rộng hơn: “FDI là các hoạt động kinh tế của các cá nhân và pháp nhân kể cả việc cho vay dài hạn hoặc sử dụng nguồn lợi nhuận tại nước sở tại nhằm tạo dựng các quan hệ kinh tế lâu dài và mang lại khả năng gây ảnh hưởng thực sự về quản lý” [22, tr.157].
Khái niệm FDI đã trở thành một khái niệm phổ biến trong các đạo luật của các quốc gia như: Luật khuyến khích đầu tư Thái Lan, Luật đầu tư Indonexia, Luật đầu tư Việt Nam… Tuy nhiên, tuỳ theo mỗi cách hiểu và từng góc độ tiếp cận mà có các quy định khác nhau về FDI.
Trên cơ sở nắm bắt được những bản chất cơ bản của FDI, Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam quy định tại khoản 2 Điều 3: “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể định nghĩa khát quát về FDI như sau: FDI là việc nhà ĐTNN bỏ vốn và các nguồn tài chính nhằm thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận.
Khái niệm các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI
FDI có ảnh hưởng rất lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Điều đó đã thôi thúc nhiều nhà khoa học và nhiều ngành khoa học như: Kinh tế học, luật học... tiếp cận đa chiều với các góc độ khác nhau về FDI và các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI. Dưới góc độ pháp lý, các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI có thể được hiểu là tổng thể các quy định pháp luật của mỗi quốc gia nhằm bảo đảm quyền lợi thiết thực, chính đáng cho các nhà ĐTNN trong quá trình đầu tư ở nước sở tại, đồng thời nhằm tạo mọi điều kiện cho hoạt động thu hút FDI phát triển, trong đó:
- Bảo đảm FDI: là những cam kết của nước tiếp nhận đầu tư nhằm đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tiễn đối với tài sản, vốn, các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà ĐTNN khi tiến hành các hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận.
- Khuyến khích FDI: là việc nước tiếp nhận đầu tư quy định dành ưu đãi nhất định về kinh tế theo hướng có lợi cho nhà đầu tư nhằm tạo động lực thúc đẩy họ vào những nước này. Biện pháp khuyến khích đầu tư là các biện pháp của Chính phủ được đặt ra để tác động tới quy mô, địa điểm hay ngành nghề đầu tư thông qua việc tác động tới chi phí tương đối hay lợi nhuận tiềm năng hoặc bằng cách giảm bớt những rủi ro đi kèm dự án đó. Chính sách đầu tư thực sự là một đòn bẩy kinh tế và vai trò của nó ở chỗ nó quyết định trực tiếp đến mức lợi nhuận mà DN thu được.
Thực chất các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI có quan hệ mật thiết với nhau, là hai mặt của một vấn đề. Bảo đảm đầu tư là điều kiện tiên quyết dẫn đến quyết định nhà đầu tư có quyết định đầu tư vào nước đó hay không bởi lẽ không một nhà đầu tư nào muốn đầu tư vào một đất nước không có các quy định về bảo đảm đầu tư hoặc có các quy định song còn thiếu chặt chẽ và không đủ độ tin cậy, không bảo đảm an toàn khi khả năng rủi ro xảy ra. Bảo đảm đầu tư là tiền đề để các biện pháp khuyến khích đầu tư có tính khả thi trên thực tế trong việc tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng, song chúng có mục tiêu thống nhất là thu hút hiệu quả nguồn vốn FDI, đồng thời là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng thúc đẩy khả năng thu hút nguồn vốn FDI và làm tăng sức cạnh tranh của môi trường đầu tư.
1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc và toàn diện, hoạt động FDI ngày càng trở nên có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Việc nhận thức rõ vị trí, vai trò của FDI đối với nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập là yêu cầu hết sức cần thiết. Hơn nữa, môi trường đầu tư ở Việt Nam tuy đã có nhiều cải thiện, nhưng trên thực tế hiện nay vẫn còn một số điểm bất cập như: Thủ tục hành chính rườm rà, pháp luật lỏng lẻo, nguồn nhân lực thừa và rẻ nhưng trình độ còn thấp.... Trong đó, yêu cầu thiết yếu hàng đầu là phải tạo ra được một môi trường pháp lý hoàn hảo, ngoài việc quy định những biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư hấp dẫn thì pháp luật cần phải thật ổn định, đồng bộ và chặt chẽ vì các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI có vai trò to lớn trong việc:
- Thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đất nước;
- Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế;
- Nguồn vốn FDI góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển lực lượng sản xuất;
- Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và mức sống của người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực;
- Định hướng đầu tư vào các lĩnh vực tạo cơ sở cho phát triển toàn bộ nền kinh tế;
- Định hướng đầu tư vào phát triển các vùng dân tộc, miền núi và hải đảo, các vùng nông thôn và duyên hải gặp khó khăn để thực hiện chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ, giảm dần sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền khác nhau của tổ quốc;
- Làm tăng thêm sự tin tưởng của các nhà đầu tư trong nước vào chính sách kinh tế của Nhà nước ta, góp phần gián tiếp thúc đẩy thu hút vốn đầu tư trong nước
- Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Việc quy định các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó mang lại hiệu quả cao nhất, có ý nghĩa nhất đối với sự phát triển của quốc gia, tác động trực tiếp đến việc thu hút FDI, giúp nhà đầu tư yên tâm khi bỏ vốn sản xuất kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư và bởi họ không những được bảo đảm về mọi quyền lợi hợp pháp mà còn được tạo mọi điều kiện, ưu đãi cần thiết trong quá trình đầu tư. Chính các quy định này đã tạo ra sự tin tưởng và an tâm của nhà đầu tư đối với chính sách đầu tư của nước sở tại, đồng thời kích thích họ đầu tư vốn, công nghệ và kỹ thuật hiện đại cho các dự án đầu tư.
Do pháp luật về đầu tư nước ngoài của nước ta ra đời muộn hơn các nước, nên việc xây dựng và hoàn thiện chế định về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc thu hút FDI ở nước ta. Các quy định của pháp luật về bảo đảm và khuyến khích đầu tư không những phải tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn mà còn phải thực sự đi trước một bước để đẩy nhanh tốc độ thu hút nguồn lực bên ngoài.
Nói tóm lại, các quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI là những quy định không thể thiếu được trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Bởi nếu không có quy định này thì sẽ làm cho hoạt động ĐTNN, đặc biệt là các hoạt động FDI không thể tồn tại được. Do đó mà pháp luật về ĐTNN của mỗi nước đều cần phải tiếp tục có sự điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút FDI đối với các quốc gia khác.
1.3. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG KHUÔN KHỔ CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ ĐIỂN HÌNH MÀ VIỆT NAM ĐÃ KÝ KẾT HOẶC THAM GIA
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hơn hai mươi năm đổi mới là hơn hai mươi năm của những kỳ tích về phát triển kinh tế. Công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao trong nhiều năm liên tục, nâng cao năng lực sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, cân bằng cán cân thương mại, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân…
Đầu tư nước ngoài đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng hội nhập hoàn toàn và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, tạo thuận lợi cho Việt Nam hòa vào dòng chảy của nền kinh tế thế giới. Bước vào năm 2008, việc thực hiện các cam kết quốc tế đa phương và song phương, nhất là các cam kết trong khuôn khổ hợp tác ASEAN - AFTA, Hiệp định thương mại Việt – Hoa Kỳ, các cam kết trong khuôn khổ WTO đã tới thời điểm khẩn trương. Một năm sau ngày gia nhập WTO, việc thực hiện các cam kết trong khuôn khổ của tổ chức này cũng được xúc tiến tích cực và đã đi vào giai đoạn thực chất. Một số cam kết nổi bật sau đây mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có liên quan đến đầu tư cho chúng ta thấy rõ hơn thời cơ và thách thức đối với nước ta trong việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đầu tư.
1.3.1. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI trong khuôn khổ các cam kết của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
Việt Nam đã tham gia trong các chương trình hợp tác kinh tế của ASEAN trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, công nghiệp… Tại các kỳ Hội nghị thượng đỉnh của ASEAN trong những năm vừa qua, các nước thành viên đã cam kết thúc đẩy cải cách kinh tế tài chính, tăng cường sự liên kết kinh tế, tích cực tự do hoá và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại đầu tư ở cấp độ khu vực và đa phương. Trong các cam kết đó, vấn đề có liên quan nhiều nhất tới FDI là Hiệp định khung khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Free Trade Area - AIA) đã được các Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN ký kết ngày 08/10/1998 tại thủ đô Malina - Philipin. Đây là một bước tiến quan trọng thể hiện tiến trình hội nhập ĐTNN của các nước ASEAN, là bước tiếp tục của Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư năm 1987, Nghị định thư năm 1996, nhằm tạo ra khung pháp lý hoàn thiện hơn cho môi trường đầu tư của khu vực ASEAN, mở ra một cơ hội và triển vọng tốt đẹp nhằm xây dựng ASEAN thành một khu vực tự do thương mại và đầu tư hấp dẫn, thông thoáng có sức cuốn hút lớn đối với các nhà ĐTNN trong và ngoài ASEAN, giảm dần và tiến tới loại bỏ những quy định về điều kiện đầu tư có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự dán đầu tư trong phạm vi ASEAN và bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới tự do lưu chuyển đầu tư.
Nội dung cơ bản của thoả thuận về khu vực đầu tư ASEAN gồm:
- Các nước tham gia Hiệp định cam kết thực hiện các chương trình hợp tác nhằm tạo ra đầu tư lớn hơn từ các nước trong và ngoài ASEAN, đó là ba chương trình: Chương trình Hợp tác và hỗ trợ; Chương trình Xúc tiến và tăng cường hiểu biết và Chương trình tự do hoá.
- Các nước tham gia Hiệp định cam kết dành chế độ đối xử quốc gia và mở cửa đầu tư tất cả các ngành nghề cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020. Ngoại trừ các ngoại lệ được quy định trong Hiệp định này.
- Xác định khu vực đầu tư ASEAN là khu vực hợp tác đầu tư và hoạt động có liên quan trong ASEAN; mục đích của AIA là tạo lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề, chuyên gia và công nghệ giữa các nước thành viên.
Những nguyên tắc của khu vực đầu tư ASEAN ghi trong Hiệp định AIA, gồm: Nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, nguyên tắc có đi có lại, nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia. Điều 7 của Hiệp định đã ghi: “Các nước ASEAN cam kết dành ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư và đầu tư tương tự của nước mình”. Khoản 2 Điều 7 của Hiệp định cho phép các quốc gia thành viên đưa ra một danh mục loại trừ tạm thời và một danh mục nhạy cảm đối với bất kỳ ngành nghề hoặc biện pháp nào có tác động đến đầu tư mà quốc gia đó không thể mở cửa hoặc đối xử quốc gia.
Hiệp định khung khu vực ASEAN là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư nội bộ và ngoài ASEAN, làm gia tăng dòng vốn, công nghệ, chuyên gia, công nhân kỹ thuật giữa các nước trong Hiệp hội. Với việc triển khai hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, nhất định luồng đầu tư vào ASEAN sẽ được tăng cường, môi trường đầu tư sẽ trở nên thôn