Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2000, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. Sau khi Luật doanh nghiệp ra đời, Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Cùng với Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác xã, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước., Luật Doanh nghiệp được ban hành đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tại Việt Nam, phục vụ cho nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa nước nhà.
Tuy nhiên sau hơn bốn năm thi hành, Luật doanh nghiệp cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định; nhiều quy định tỏ ra bất hợp lý, cần phải có những sửa đổi, bổ sung kịp thời; nhiều vấn đề phát sinh cần được nghiên cứu, lý giải để để góp phần xây dựng cơ chế thi hành Luật doanh nghiệp có hiệu quả trong đời sống xã hội. Nói cách khác là sau một thời gian phát huy hiệu lực, bên cạnh những thành tựu rất đáng ghi nhận, thì cũng dần xuất hiện không ít những vấn đề khó khăn cần phải được giải quyết, cả về lý luận cũng như cơ chế thi hành. Việc nghiên cứu vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp trở nên hết sức cấp thiết, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang cố gắng để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp ”.
Do trình độ và thời gian còn nhiều hạn chế, cũng như phạm vi rộng và tính phức tạp của đề tài, tiểu luận không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự giúp đỡ và ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn.
49 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3398 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2000, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. Sau khi Luật doanh nghiệp ra đời, Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành… Cùng với Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác xã, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước..., Luật Doanh nghiệp được ban hành đã đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tại Việt Nam, phục vụ cho nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa nước nhà.
Tuy nhiên sau hơn bốn năm thi hành, Luật doanh nghiệp cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định; nhiều quy định tỏ ra bất hợp lý, cần phải có những sửa đổi, bổ sung kịp thời; nhiều vấn đề phát sinh cần được nghiên cứu, lý giải để để góp phần xây dựng cơ chế thi hành Luật doanh nghiệp có hiệu quả trong đời sống xã hội. Nói cách khác là sau một thời gian phát huy hiệu lực, bên cạnh những thành tựu rất đáng ghi nhận, thì cũng dần xuất hiện không ít những vấn đề khó khăn cần phải được giải quyết, cả về lý luận cũng như cơ chế thi hành. Việc nghiên cứu vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp trở nên hết sức cấp thiết, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang cố gắng để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp ”.
Do trình độ và thời gian còn nhiều hạn chế, cũng như phạm vi rộng và tính phức tạp của đề tài, tiểu luận không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự giúp đỡ và ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn.
Chương I
Khái quát chung về Luật doanh nghiệp
I. Sự ra đời luật doanh nghiệp
Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời vào giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990) đã thể hiện bước đột phá, đánh dấu sự thay đổi trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta.
Với tính thời sự và tầm quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta đề ra và quan tâm thực hiện, những quy định trong Luật công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây tỏ ra không còn thích hợp với nội dung tương ứng của một số Luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật dân sự, Luật thương mại…
Ngoài ra, cũng phải kể đến trình độ phát triển về kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay đã đạt được mức cao hơn đáng kể so với 10 năm trước đây. Chính sự phát triển đó đã tạo ra lý do chủ yếu thúc đẩy việc ban hành Luật doanh nghiệp trên cơ sở hợp nhất Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp có phạm vi điều chỉnh mở rộng hơn, nội dung đầy đủ bao quát hơn, phù hợp hơn với yêu cầu quản lý Nhà nước và yêu cầu đa dạng hoá hình thức kinh doanh, thúc đẩy, huy động nội lực phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.
Luật doanh nghiệp đã được xây dựng trên cơ sở bám sát các tư tưởng chỉ đạo sau đây:
Một là, Quán triệt đầy đủ tư tưởng, nội dung, tinh thần của Nghị quyết hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 4 khóa VIII về tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo pháp luật.
Hai là, Hiến pháp năm 1992, các Bộ Luật, Luật đã ban hành liên quan đến hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp.
Ba là, Nội dung luật doanh nghiệp trước hết phải xuất phát từ thực tiễn, từ yêu cầu cuộc sống đang đòi hỏi, giải quyết những vướng mắc của đời sống kinh tế đồng thời tạo ra động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ sức mạnh nội lực.
Bốn là, Kế thừa những kinh nghiệm quý báu đúc kết được trong quá trình thực hiện Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, cũng như học tập tham khảo kinh nghiệm của các nước để xây dựng Luật doanh nghiệp hiện đại góp phần thích nghi và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới.
Trên tinh thần đó, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá X ngày 12/6/1999, Luật doanh nghiệp đã được thông qua, đánh dấu một bước tiến mới, quan trọng trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng hơn để thúc đẩy, khuyến khích các nhà đầu tư phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, nhằm “góp phần phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh”.
Những nội dung cơ bản của Luật doanh nghiệp
Phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp
Thay thế Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp quy định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình công ty và doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp Nhà nước sau khi được cổ phần hoá, kể cả trường hợp Nhà nước có cổ phần chi phối tại doanh nghiệp; doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp thì những loại hình doanh nghiệp sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân đã thành lập theo quy định của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ngày 21 tháng 12 năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật sửa đổi một số điều của Luật công ty ngày 22 tháng 6 năm 1994;
+ Công ty cổ phần được thành lập từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước;
+ Công ty cổ phần được cổ phần hoá doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị – xã hội;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập từ việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập từ việc chuyển đổi doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị – xã hội.
Luật doanh nghiệp, cụ thể là các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị – xã hội đăng ký và hoạt động. Như vậy, Luật doanh nghiệp điều chỉnh phần lớn các loại hình doanh nghiệp thành lập và hoạt động tại Việt Nam (trừ Hợp tác xã, Doanh nghiệp Nhà nước, và Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam).
Đối tượng được quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp và góp vốn vào doanh nghiệp.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp, đối tượng được quyền thành lập, góp vốn và quản lý doanh nghiệp được mở rộng hơn so với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Trong Luật doanh nghiệp vấn đề người được quyền góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp được quy định theo phương pháp loại trừ, theo đó mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền thành lập, quản lý và góp vốn vào doanh nghiệp, trừ trường hợp bị cấm được liệt kê trong Luật (điều 9, điều 10). Cách tiếp cận này của Luật doanh nghiệp tạo lập được các công cụ pháp lý để tập trung huy động vốn kinh doanh. Để huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, Luật doanh nghiệp mở rộng tối đa phạm vi các chủ thể có nguồn lực được đóng góp vào hoạt động kinh doanh.
Thủ tục thành lập doanh nghiệp.
So với Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp đã có bước tiến quan trọng trong các quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp xoá bỏ thủ tục “xin – cho” trong thành lập doanh nghiệp.
Nhằm khắc phục những hạn chế của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân và thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp đã hoàn thiện những quy định về thành lập và đăng ký kinh doanh theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính và hồ sơ, đề cao trách nhiệm của người đăng ký kinh doanh trong việc bảo đảm tính chính xác, trung thực. So với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, các quy định về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh của Luật doanh nghiệp đã có những đổi mới cơ bản như: xoá bỏ chế độ xin phép thành lập, chỉ thực hiện việc đăng ký kinh doanh; coi việc thành lập doanh nghiệp là quyền tự do kinh doanh, được pháp luật bảo đảm, góp phần xoá bỏ cơ chế “xin-cho” đang tồn tại khá phổ biến trong đời sống kinh tế-xã hội nước ta. Đây chính là một bước tiến mới trong việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh của Luật doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp quán triệt tư tưởng “thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là quyền của công dân và tổ chức được Nhà nước bảo hộ” đã quy định giản đơn về hồ sơ đăng ký kinh doanh. Ngoại trừ việc thành lập doanh nghiệp kinh doanh một số ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề, hồ sơ đăng ký kinh doanh chỉ bao gồm: (i) Đơn đăng ký kinh doanh; (ii) Điều lệ đối với công ty; (iii) Danh sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, danh sách thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, danh sách cổ đông cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần.
Bên cạnh việc đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp còn bãi bỏ quy định về vốn pháp định đối với doanh nghiệp ở hầu hết các ngành nghề. Với mục đích phát huy nội lực, huy động tối đa nguồn lực trong dân chúng, Luật doanh nghiệp không quy định vốn pháp định là một điều kiện để thành lập doanh nghiệp, trừ các doanh nghiệp kinh doanh ở một số ngành nghề được quy định trong các luật chuyên ngành. Như vậy, theo Luật Doanh nghiệp thì chỉ có một số ngành nghề nhất định mới đòi hỏi có xác nhận vốn pháp định (như kinh doanh vàng, bảo hiểm, tín dụng…).
Ngoài ra Luật doanh nghiệp cũng không yêu cầu nhà đầu tư phải xuất trình phương án kinh doanh và những xác nhận khác về nhân thân của chủ đầu tư như giấy chứng nhận sức khoẻ, hộ khẩu thường trú khi đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp mà chỉ kê khai các thông tin này theo mẫu quy định.
Tóm lại, Luật doanh nghiệp đã thực hiện một cuộc cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp theo hướng gộp việc xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh thành một, đồng thời chỉ giữ lại những thủ tục, hồ sơ thực sự cần thiết trên cơ sở yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Những cải cách đó sẽ giảm bớt được chi phí về thời gian, công sức và tiền bạc cho việc thành lập doanh nghiệp, đồng thời cũng giúp cho doanh nghiệp có được sự chủ động trong hoạt động. Những cải cách đó cũng sẽ tháo bỏ được một cản trở đã tồn tại nhiều năm qua đối với việc thành lập doanh nghiệp, làm cho việc thành lập doanh nghiệp để kinh doanh trở nên hấp dẫn hơn đối với dân chúng và doanh nghiệp, qua đó giúp cho xã hội huy động được nguồn vốn đưa vào phát triển kinh doanh, làm tăng sức cạnh tranh của thị trường để làm cho nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn.
Các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp.
Đây là một nội dung hoàn toàn mới của Luật Doanh nghiệp so với Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Mục đích và ý nghĩa của Luật doanh nghiệp khi quy định về các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong tổ chức vận hành hoạt động kinh doanh. Bởi vì có thể cũng là một loại hình kinh doanh, nhưng tại giai đoạn này thì phù hợp , nhưng sang giai đoạn khác lại không phù hợp nữa. Việc quy định các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp đã tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư có thể thay đổi hình thức kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển kinh tế. Hơn nữa, việc đưa ra một khung pháp lý để tổ chức lại doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, bảo vệ được lợi ích của các bên liên quan như chủ nợ, người lao động, Nhà nước ..
Luật doanh nghiệp đã quy định khá đầy đủ về vấn đề tổ chức lại doanh nghiệp. Các quy định về tổ chức lại doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở vận dụng những nguyên tắc chung về tổ chức lại pháp nhân đợc quy định trong Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được đề cập trong Luật doanh nghiệp có nội dung là tổ chức lại công ty, cụ thể như sau:
4.1.Chia doanh nghiệp
Chia doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được chia thành một số công ty mới cùng loại. Viêc chia công ty do Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty quyết định. Quyết định chia công ty phải có các nội dung chủ yếu: tên, trụ sở công ty hiện có, số lượng công ty sẽ thành lập; nguyên tắc và thủ tục chia tài sản công ty; phương án sử dụng lao động, thời hạn và thủ tục chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị chia sang công ty mới thành lập; nguyên tắc giải quyết các nghĩa vụ của công ty bị chia, thời hạn chia công ty.
Sau khi xác lập tư cách pháp lý cho các công ty mới (đăng ký kinh doanh), công ty bị chia chấm dứt sự tồn tại. Các công ty mới thành lập phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia, trừ trường hợp chủ nợ và các công ty mới thành lập có thoả thuận khác.
4.2.Tách doanh nghiệp
Tách doanh nghiệp là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó một phần tài sản, quyền và nghĩa vụ của công ty hiện có (công ty bị tách) được tách ra để thành lập một hoặc một số công ty mới cùng loại (công ty được tách) mà không chấm dứt sự tồn tại của công ty bị tách. Việc tách công ty do Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty quyết định. Quyết định tách công ty phải có các nội dung chủ yếu : tên, trụ sở công ty bị tách, số lượng công ty được tách; phương án sử dụng lao động; giá trị tài sản, các quyền và nghĩa vụ được chuyển từ công ty bị tách sang công ty được tách, thời hạn thực hiện tách công ty.
Sau khi xác lập tư cách pháp lý cho công ty được tách, công ty bị tách và công ty được tách phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách phát sinh trước khi tách công ty, trừ trường hợp chủ nợ, ngời có quyền và lợi ích liên quan và công ty bị tách và công ty được tách có thoả thuận khác.
4.3. Hợp nhất doanh nghiệp
Hợp nhất là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho tất cả các loại hình công ty, theo đó hai hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị hợp nhất) hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị hợp nhất.
Để thực hiện việc hợp nhất, các công ty bị hợp nhất phải thiết lập một hợp đồng gọi là hợp đồng hợp nhất. Hợp đồng hợp nhất phải có các nội dung chủ yếu: tên, địa chỉ trụ sở công ty bị hợp nhất và công ty hợp nhất; thủ tục và điều kiện hợp nhất; phương án sử dụng lao động; thời hạn, thủ tục và điều kiện chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị hợp nhất thành vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty hợp nhất; thời hạn thực hiện hợp đồng hợp nhất. Các thành viên, cổ đông của công ty bị hợp nhất thông qua hợp đồng hợp nhất, Điều lệ công ty hợp nhất, thiết lập bộ máy tổ chức quản lý công ty và đăng ký kinh doanh cho công ty hợp nhất. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty hợp nhất, các công ty bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại, công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.
4.4. Sáp nhập doanh nghiệp
Sáp nhập là biện pháp tổ chức lại được áp dụng cho tất cả các loại hình công ty, theo đó một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp nhập) sáp nhập vào một công ty mới (gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
Để thực hiện việc sáp nhập, các công ty có liên quan (công ty bị sáp nhập và công ty nhận sáp nhập) phải thiết lập một hợp đồng gọi là hợp đồng sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu: tên, địa chỉ trụ sở công ty bị sáp nhập và công ty nhận sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; thời hạn, thủ tục và điều kiện chuyển đổi tài sản; chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện hợp đồng sáp nhập. Các thành viên, cổ đông của các công ty có liên quan thông qua hợp đồng sáp nhập, Điều lệ công ty nhận sáp nhập và đăng ký kinh doanh cho công ty nhận sáp nhập. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty nhận sáp nhập, các công ty bị sáp nhập chấm dứt sự tồn tại, công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị sáp nhập.
4.5. Chuyển đổi doanh nghiệp
Chuyển đổi doanh nghiệp được hiểu là biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp theo đó một doanh nghiệp loại hình này (doanh nghiệp được chuyển đổi) chuyển thành một doanh nghiệp thuộc loại hình khác. Theo Luật doanh nghiệp thì chuyển đổi doanh nghiệp chỉ được áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc ngược lại.
Để thực hiên việc chuyển đổi công ty, Hội đồng thành viên hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty được chuyển đổi thông qua quyết định chuyển đổi và Điều lệ công ty chuyển đổi. Quyết định chuyển đổi phải có các nội dung: tên, trụ sở công ty được chuyển đổi và công ty chuyển đổi; thời hạn và điều kiện chuyển tài sản, phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty được chuyển đổi thành tài sản, phần vố góp, cổ phần, trái phiếu của công ty chuyển đổi; phương án sử dụng lao động; thời hạn thực hiện chuyển đổi. Công ty chuyển đổi phải được đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền. Sau khi đăng ký kinh doanh cho công ty chuyển đổi, công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại. Công ty chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty được chuyển đổi.
Giải thể doanh nghiệp
Theo Luật doanh nghiệp, vấn đề giải thể doanh nghiêp tư nhân và công ty được quy định chung. Luật doanh nghiệp có quy định các trường hợp giải thể tự nguyện và các trường hợp giải thể bắt buộc, nhưng chỉ quy định một thủ tục để tiến hành giải thể cho dù là giải thể tự nguyện hay giải thể bắt buộc. Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp bao gồm các bước cơ bản là: (1)Thông qua quyết định giải thể, (2)Gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh, các chủ nợ, người có quyền và lợi ích liên quan và đăng báo quyết định giải thể, (3)Tiến hành thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ và thanh lý các hợp đồng, (4)Cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh
Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp
Mục tiêu của Luật doanh nghiệp trong việc đưa ra những quy định về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp là tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh nghiệp; nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp; góp phần ngăn ngừa khả năng một số cán bộ, công chức lợi dụng quyền hạn được giao để sách nhiễu, gây phiền hà cho cá