Đề tài Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành

Ở Việt Nam (tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992) cũng như những quốc gia khác thì quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ. Thực tế cho thấy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định của pháp luật mà trong thừa kế theo pháp luật thì diện và hàng thừa kế là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của những người được hưởng thừa kế. Em xin chọn đề tài “Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành” để có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này.

doc18 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2302 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC TRANG A. Mở đầu…………………………………………………………………1 B. Nội dung………………………………………………………………..1 I. Một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế………………………..1 1. Thừa kế theo pháp luật………………………………………………....1 2. Diện và hàng thừa kế……………………………………………………3 2.1. Diện thừa kế……………………………………………………………3 2.2. Hàng thừa kế…………………………………………………………..5 II. Thực tiễn áp dụng các qui định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành- một số điểm hạn chế và hướng hoàn thiện…………………….13 C. Kết luận…………………………………………………………………16 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………….17 A. MỞ ĐẦU Ở Việt Nam (tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992) cũng như những quốc gia khác thì quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ. Thực tế cho thấy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định của pháp luật mà trong thừa kế theo pháp luật thì diện và hàng thừa kế là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của những người được hưởng thừa kế. Em xin chọn đề tài “Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành” để có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. B. NỘI DUNG I. Một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế. 1. Thừa kế theo pháp luật. v Theo Điều 674 BLDS năm 2005 quy định: “ Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Như vậy, khái niệm “thừa kế theo pháp luật” có thể được hiểu là sự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện cà trình tự thừa kế do pháp luật qui định. Thừa kế theo pháp luật vừa đảm bảo quyền đương nhiên của người có tài sản để lại của họ khi chết, vừa bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết thống, gia đình, quan hệ nuôi dưỡng hay quan hệ thân thuộc với người có tài sản để lại. Như vậy hình thức thừa kế theo pháp luật là hình thừc thừa kế truyền thống được bảo tồn trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài người nhằm củng cố cơ sở vật chất của mối quan hệ huyết thống gia đình – nền tảng của mọi xã hội. v Pháp luật hiện hành cũng qui định rõ những trường hợp thừa kế theo pháp luật tại Điều 675 BLDS, cụ thể trong những trường hợp sau: +Không có di chúc; + Di chúc không hợp pháp; + Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thùa kế; + Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản, hoặc từ chối quyền hưởng di sản; Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: + Phần di sản không được định đoạt theo di chúc; +Phần di sản có liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực pháp luật. + Phần di sản có liên quan đến người được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền được hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế. vNhững người được hưởng thừa kế theo qui định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, nghĩa là dù cho người đó có bị hạn chế năng lực hành vi hay thậm chí bị mất năng lực hành vi thì người đó vẫn có quyền thừa kế. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công dân về quyền thừa kế nên mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế từ người chết và bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong phạm vi di sản mình nhận được. Bởi phạm vi những người thừa kế là rất rộng nên pháp luật phải qui định thành nhiều hàng thừa kế, trong đó hàng thứ nhất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác; các hàng thứ hai, thứ ba là hàng dự bị- nếu như người chết không có những người ở hàng thứ nhất hoặc có nhưng họ đều không nhận hoặc không có quyền nhận. 2. Diện và hàng thừa kế. 2.1. Diện thừa kế. v Khái niệm: Diện những người thừa kế là phạm vi những người hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật. Khái niệm này chỉ được nghiên cứu dưới góc độ học thuật mà không được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự bởi vì nó chỉ là sự suy đoán ý chí người để lại di sản của các nhà làm luật. v Diện những người thừa kế được xác định dựa trên 3 mối quan hệ với người để lại di sản, đó là: + Quan hệ hôn nhân +Quan hệ huyết thống +Quan hệ nuôi dưỡng Trong số đó, không phải ai cũng được hưởng di sản thừa kế mà chỉ một số người nhất định có thể được hưởng di sản thôi. Việc những người thừa kế có được hưởng di sản hay không còn phụ thuộc vào sự sắp xếp của hàng thừa kế. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất sẽ được hưởng thừa kế trước và thừa kế toàn bộ di sản. Như vậy những người thuộc hàng thừa kế sau sẽ không được hưởng di sản mặc dù họ thuộc diện những người thừa kế theo pháp luật. Họ chỉ có thể được hưởng di sản nếu như không còn thừa kế ở những hàng trước hoặc những người thừa kế đó không nhận hoặc không có quyền nhận. Vì vậy chúng ta gọi diện những người thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế.Việc pháp luật lựa chọn và sắp xếp ai thuộc diện thừa kế theo pháp luật được căn cứ vào các mối quan hệ trong xã hội có tính chất thân thuộc gần gũi nhất đối với người quá cố, mà dựa vào đó pháp luật xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật. w Quan hệ hôn nhân: xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng. Quan hệ hôn nhân là quan hệ vợ chồng sau khi đã kết hôn.Quan hệ đó phải hợp pháp, tức là tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn và cấm kết hôn, có đăng kí kết hôn. Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo qui định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn. Đăng kí kết hôn làm xác lập quan hệ hôn nhân và là cơ sở hình thành gia đình. Hôn nhân chỉ được Nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ các qui định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn(điều kiện về tuổi kết hôn, sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn, việc kết hôn không thuộc các trường hợp cấm kết hôn…) và đăng kí kết hôn (việc kết hôn phải được đăng kí và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức do pháp luật qui định) Sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng, nội dung của quan hệ hôn nhân bao gồm các quyền và nghĩa vụ về thân nhân và các quyền và nghĩa vụ về tài sản. Quyền và nghĩa vụ về tài sản đóng vai trò quan trọng trong đời sống gia đình, bao gồm quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài sản.Trong đó, quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng đã được ghi nhận tại Bộ luật dân sự 2005 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. w Quan hệ huyết thống: là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng một gốc “ông tổ” (như giữa cụ và ông,bà; giữa ông bà và cha mẹ; giữa cha mẹ đẻ với con; giữa anh chị em cùng cha mẹ; cùng mẹ khác cha, cùng cha khác mẹ.) w Quan hệ nuôi dưỡng: là quan hệ dựa trên cơ sở nuôi con nuôi, được pháp luật thừa nhận giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi…, dựa trên các ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận làm phát sinh quan hệ nuôi dưỡng giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. 2.2. Hàng thừa kế. Pháp luật qui định di sản của người chết được chia cho những người thân thích, gần gũi đối với người chết, tuy nhiên không phải tất cả những người trong diện những người thừa kế theo pháp luật đều được thừa kế cùng một lúc. Để những người thừa kế theo pháp luật theo trình tự trước, sau phải căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có mức độ gần gũi nhất với người đã chết sẽ được hưởng di sản mà người đó để lại, nhiều người có mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng dược hưởng di sản của người đó. Khi không có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi tiếp theo sẽ được hưởng di sản của người chết để lại. Mức độ gần gũi thân thiết của những người thân thích đó với người chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế trở nên khó khăn, phức tạp. Vấn đề này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới không chỉ ở riêng Việt Nam. Nhiều nước trong đó có Việt Nam đã căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết xếp những người đó theo từng nhóm khác nhau mà mỗi nhóm được gọi là hàng thừa kế theo pháp luật. vKhái niệm: Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế để giải quyết vấn đề này. v Theo Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 đã xếp những người thuộc diện thừa kế thành ba hàng thừa kế, cụ thể như sau “ Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.” w Hàng thứ nhất bao gồm:vợ (chồng), cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau: + Người thừa kế là vợ (chồng) Điều kiện để vợ chồng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nhau là vợ chồng đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp có thể là hôn nhân có giấy chứng nhận kết hôn hoặc trường hợp hôn nhân thực tế theo qui định tại mục 3, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình: “a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.” - Nếu việc kết hôn của họ là trái pháp luật thì dù có giấy chứng nhận kết hôn giữa họ vẫn không phát sinh quan hệ vợ chồng, do đó họ không được thừa kế di sản của nhau. - Trường hợp vợ chồng đã ly hôn thì họ cũng không được thừa kế tài sản của nhau theo luật. - Trường hợp vợ chồng không ly hôn nhưng đã chia tài sản chung theo Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, sau đó một trong hai người chết thì người kia vẫn được thừa kế tài sản của vợ (chồng) mình đã chết (theo Khoản 1 Điều 680 BLDS). - Trường hợp vợ chồng đã xin ly hôn nhưng Tòa án chưa xét xử hoặc tuy Tòa án đã mở phiên tòa xét xẻ cho họ ly hôn nhưng bản án hoặc quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật (do có kháng cáo hoặc đang trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị) mà một trong hai vợ chồng chết thì người còn sống vẫn có quyền thừa kế tài sản của chồng (vợ) đã chết (Khoản 2 Điều 680 BLDS) - Theo Khoản 3 Điều 680 BLDS: “Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản”. Như vậy, nhà nước ta bảo đảm quyền thừa kế tài sản của các cá nhân, bảo vệ quyền thừa kế tài sản giữa vợ và chồng ngay cả khi người vợ góa hoặc người chồng góa kết hôn với người khác. + Người thừa kế là cha, mẹ, con: Quan hệ này được xác lập theo hai căn cứ: - Thứ nhất là mối quan hệ huyết thống giữa những người cùng dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đó cha mẹ đẻ là người đã sinh ra người đó nên được pháp luật quy định ở hàng thừa kế thứ nhất. Cha, mẹ là người thừa kế hàng thứ nhất của con đẻ và con đẻ là người thừa kế hàng thứ nhất của cha, mẹ đẻ mình. Khái niệm con đẻ ở đây bao gồm: - Con trong giá thú: là con mà cha mẹ là vợ chồng trước pháp luật (trước đây dưới chế độ cũ gọi là con chính thức) - Con ngoài giá thú: là con mà cha mẹ không phải là vợ chồng trước pháp luật, hoặc tuy cha mẹ ăn ở, chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng bao gồm một số trường hợp sau: Người mẹ không có chồng mà sinh con; người mẹ có chồng nhưng ngoại tình, có con với người khác; hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, trong thời gian sống chung, giữa hai người có con chung với nhau nhưng cha mẹ không đăng kí kết hôn (kể cả trường hợp hai vợ chồng đã ly hôn, phán quyết ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, sau đó họ lại tái hợp cùng sống chung với nhau nhưng không đăng kí kết hôn lại theo thủ tục Luật định. Nếu người mẹ sinh con trong thời kì này thì con đó là con chung ngoài giá thú). Vấn đề con ngoài giá thú trong thực tiễn rất phức tạp vì giữa cha mẹ của người con không có hôn nhân hợp pháp, tức là không có thời kì hôn nhân thì không thể suy đoán theo nguyên tắc qui định tại Khoản 1 Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2000. Như vậy. con ngoài giá thú cũng là người thừa kế hàng thứ nhất của cha mẹ mình. -Thứ hai là mối quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con. Mối quan hệ nuôi dưỡng ở đây là của bố mẹ nuôi với con nuôi và ngược lạ. Việc pháp luật quy định bố mẹ nuôi và con nuôi vào hàng thừa kế thứ nhất là hoàn toàn hợp lý. Sau đây là một số trường hợp cần lưu ý trong việc xác định quyền thừa kế trong mối quan hệ này: Trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì người này được hưởng thừa kế ở hàng nhất đối với cả hai người và ngược lại. Trong trường hợp người này có con nuôi mà chưa đăng ký việc nhận con nuôi theo đúng quy định của pháp luật thì quyền thừa kế giữa họ sẽ không được công nhận cho đến khi họ đăng ký. Về phía gia đình cha nuôi, mẹ nuôi thì con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế với cha mẹ và con đẻ của người nuôi con nuôi. Cha mẹ đẻ của người nuôi con nuôi cũng không được thừa kế của người con nuôi đó. Nếu cha nuôi, mẹ nuôi kết hôn với người khác thì người con nuôi không đương nhiên trở thành con nuôi của người đó, vậy nên họ không phải là người thừa kế của nhau theo pháp luật. Người đã làm con nuôi của người khác vẫn có quan hệ thừa kế với cha, mẹ đẻ, ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại anh ruột, chị ruột, em ruột, bác, cô, dì, chú, cậu ruột như người không làm con nuôi của người khác. ( Theo Điều 678. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ thì “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này.”) - Ngoài ra, đối với mối quan hệ của con riêng với bố dượng, mẹ kế cần có nhiều điểm lưu ý. Hiện nay thì việc xác định quyền thừa kế theo pháp luật của nhau giữa con riêng và cha kế, mẹ kế là một vấn đề phức tạp và có nhiều quan điểm khác nhau trong việc áp dụng quy phạm để giải quyết tranh chấp thực tế pháp sinh.Như trong trường hợp mẹ kế sống với bố còn con riêng sống với mẹ đẻ như vậy hai người này không có quan hệ huyết thống mà cũng chẳng có quan hệ nuôi dưỡng; hoặc là các trường hợp con riêng sống với bố dượng, mẹ kế nhưng bị ghét bỏ, không nhận được sự quan tâm, chăm sóc nuôi dưỡng (các trường hợp này rất phổ biến ở nhiều nước) nên việc chọn cho con riêng, bố dượng, mẹ kế thừa kế của nhau trong các trường hợp này là không hợp lý. Vì thế điều 679 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định: “con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại điều 676 và 677 của Bộ luật này”. Như vậy là trong trường hợp pháp luật xác định được chắc chắn mối quan hệ nuôi dưỡng của con riêng với bố dượng, mẹ kế là mối quan hệ nuôi dưỡng như cha con hoặc mẹ con thì họ mới được hưởng thừa kế của nhau và còn được hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất hoặc thừa kế thế vị. wHàng thừa kế thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. + Mối quan hệ giữa ông bà và cháu: Điểm b, khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự 2005 đưa ra căn cứ để xác định mối quan hệ thừa kế này là hoàn toàn dựa vào quan hệ huyết thống mà không dựa vào quan hệ nuôi dưỡng: ông bà phải là ông ngoại, bà ngoại, ông nội, bà nội, cháu phải là cháu ruột. Bộ luật dân sự 1995 không xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà nên quan hệ thừa kế này chỉ có một chiều, nhưng theo pháp luật hiện hành thì quan hệ thừa kế này là quan hệ thừa kế hai chiều. Do đó việc thừa kế của ông bà khi cháu chết và cháu nhận thừa kế khi ông bà qua đời là đương nhiên theo luật. Đối với trường hợp cháu nuôi thì pháp luật Việt Nam không thừa nhận quyền thừa kế của họ. Tức là đối với cha đẻ, mẹ đẻ của một người với con nuôi người đó thì không có quyền thừa kế. Nhưng đối với quyền thừa kế giữa bố mẹ nuôi của một người với con đẻ của người đó thì lại được pháp luật công nhận ở điều 677 - thừa kế thế vị. + Quan hệ thừa kế giữa anh, chị, em ruột: Căn cứ để phát sinh quyền thừa kế giữa những người này cũng là mối quan hệ huyết thống. Anh ruột, chị ruột, em ruột là những người cùng cha cùng mẹ hoặc cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ, con trong giá thú hay con ngoài giá thú miễn là họ có chung dòng máu của người sinh ra mình thì đương nhiên theo pháp luật họ được quyền hưởng thừa kế ở hàng thứ hai của nhau. Nghĩa là: một người mẹ có bao nhiêu con đẻ thì bấy nhiêu người con đó là anh, chị, em ruột của nhau. Ngoài ra pháp luật còn quy định rõ con riêng của vợ và con riêng của chồng không phải là anh em ruột của nhau; con nuôi của một người không đương nhiên trở thành anh chị em đối với con đẻ của người đó nên do đó, họ không phải người thừa kế hàng thứ hai của nhau (vì họ không phải là anh, chị, em ruột). Tuy nhiên, người làm con nuôi người khác vẫn là người thừa kế hàng thứ hai của anh, chị, em ruột của mình và ngược lại, người có anh, chị, em làm con nuôi của người khác vẫn là người thừa kế hàng thứ hai của người đã làm con nuôi của người khác đó. wHàng thừa kế thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết (anh, chị, em ruột của bố mẹ người chết); cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Cụ nội của một người là người sinh ra ông nội hoặc bà nội của người đó, cụ ngoại của một người là người sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người đó.Trường hợp cụ nội, cụ ngoại chết mà không có người thừa kế là con và cháu hoặc có người thừa kế nhưng họ đều từ chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di sản thì chắt sẽ được hưởng di sản từ cụ nội, cụ ngoại. Người thừa kế là bác, chú, dì, cô ruột của
Luận văn liên quan