Đề tài Một số vấn đề về phương thức bảo vệ quyền sở hữu

Bảo vệ quyền sở hữu là một chế định pháp luật quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiến pháp 1992 đã quy định rõ, Điều 58: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18. “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.” Bộ luật dân sự 2005 đã giành 1 phần, với 6 chương, cùng 167 điều luật để quy định những vấn đề xung quanh quyền sở hữu. Trong đó, bảo vệ quyền sở hữu được quy định tại chương XV, với 7 điều luật. Là một chế định quan trọng trong pháp luật Việt Nam, bảo vệ quyền sở hữu đồng thời là một vấn đề rất bức thiết ở nước ta hiện tại, đó là vấn đề thực tiễn, khi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển cao, xã hội phát triển nhanh, các vấn đề mới nảy sinh thì các nhân tố đe dọa đến quyền sở hữu ngày càng nhiều và đa dạng. Nhu cầu được bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể pháp luật từ các quy định của pháp luật dân sự là rất lớn. Do đó, cần bàn luận về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu, qua đó tìm ra được những phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện chế định về bảo vệ quyền sở hữu nói riêng và BLDS nói chung.

docx23 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2075 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về phương thức bảo vệ quyền sở hữu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Bảo vệ quyền sở hữu là một chế định pháp luật quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiến pháp 1992 đã quy định rõ, Điều 58: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18. “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.” Bộ luật dân sự 2005 đã giành 1 phần, với 6 chương, cùng 167 điều luật để quy định những vấn đề xung quanh quyền sở hữu. Trong đó, bảo vệ quyền sở hữu được quy định tại chương XV, với 7 điều luật. Là một chế định quan trọng trong pháp luật Việt Nam, bảo vệ quyền sở hữu đồng thời là một vấn đề rất bức thiết ở nước ta hiện tại, đó là vấn đề thực tiễn, khi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển cao, xã hội phát triển nhanh, các vấn đề mới nảy sinh thì các nhân tố đe dọa đến quyền sở hữu ngày càng nhiều và đa dạng. Nhu cầu được bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể pháp luật từ các quy định của pháp luật dân sự là rất lớn. Do đó, cần bàn luận về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu, qua đó tìm ra được những phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện chế định về bảo vệ quyền sở hữu nói riêng và BLDS nói chung. NỘI DUNG I. Quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu 1. Về quyền sở hữu Quyền sở hữu là một chế định pháp luật quan trọng được Nhà nước quy định nhằm xác định nội dung về sở hữu.Theo Điều 164 Bộ luật Dân sự (BLDS) của Việt Nam: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”. Bộ luật dân sự đã đưa ra định nghĩa của quyền sở hữu bằng cách nêu ra những quyền năng cơ bản của chủ sở hữu và chủ thể của quyền này, quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng cơ bản: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. “Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản”.(Điều 182) Theo cách hiểu thông thường nhất thì chiếm hữu là sự nắm giữ, chi phối vật về mặt thực tế. “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”.(Điều 192) Nói một cách dễ hiểu thì quyền sử dụng là quyền khai thác những lợi ích mang lại từ tài sản. « Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó « .(Điều 195) Quyền định đoạt có thể thực hiện bằng hai cách: quyết định số phận về mặt thực tế hoặc quyết định số phận về mặt pháp lý của tài sản Bất cứ chủ thể nào có quyền sở hữu đối với thì đều có thể thực hiện được ba quyền năng trên. Tuy nhiên, có được quyền chiếm hữu, quyền sử dụng hay quyền định đoạt chưa chắc đã được thực hiện quyền sở hữu. 2. Về bảo vệ quyền sở hữu Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân, nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ quyền sở hữu. Theo lý luận truyền thống của luật dân sự thì bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Phương thức bảo vệ quyền sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở hữu sử dụng phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Quyền sở hữu được bảo vệ bằng các biện pháp hình sự,  hành chính hay dân sự, tương ứng với các ngành luật. Ngành luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những thể lệ và quản lí và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân công dân. Trong một số trường hợp Nhà nước sử dụng biện pháp cưỡng chế bằng bạo lực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân hay tổ chức nhất định về mặt vật chất hay tinh thần nhằm buộc các cá nhân hay tổ chức phải thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhất định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể khác, hoặc người đó phải phục tùng một số hạn chế nhất định đối với tài sản của mình hoặc tự do thân thể nhằm bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể khác. Ngành luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định một số hành vi nhất định xâm phạm đến quyền sở hữu là tội phạm và quy định mức hình phạt tương xứng với mỗi loại hành vi phạm tội đó. Việc bảo vệ bằng biện pháp hình sự mang tính chất trừng trị và răn đe. Người nào có hành vi xâm phạm đến sở hữu XHCN (Điều 129 đến Điều 142 trong BLHS), sở hữu của công dân (theo Điều 151 đến Điều 163 BLHS), thì phải chịu trách nhiệm pháp lý tùy theo mức độ phạm tội. Khác với các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu do luật hành chính và luật hình sự, chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu do Nhà nước thực hiện thì thông qua biện pháp dân sự, cá nhân, tổ chức bị xâm phạm quyền sở hữu có thể dùng các phương thức dân sự bảo vệ quyền sở hữu của mình: Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu; Bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức kiện dân sự. Thực tế cho thấy, chủ sở hữu chủ yếu sử dụng các phương thức dân sự để bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Bài viết này của em chỉ đề cập đến bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể thông qua các phương thức dân sự. II. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu 1. Tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp 1.1. Khái niệm chung về biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu Điều 255 BLDS ghi nhận: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật” Tự bảo vệ quyền sở hữu là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản tự mình tiền hành các biện pháp trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được áp dụng các biện pháp nhất định để ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Hành vi xâm phạm trước tiên làm phát sinh quan hệ giữa chủ thể quyền và người xâm phạm. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp hơn ai hết là người biết rõ mức độ và hậu quả của hành vi xâm phạm. Việc tự bảo vệ gắn liền với quyền lợi thiết thân của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vì vậy, tự bảo vệ cũng chính là việc thực hiện hành vi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Biện pháp tự bảo vệ cũng xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự và nguyên tắc hòa giải. Quan hệ tài sản dựa trên cơ sở bình đẳng, độc lập giữa các chủ thể tham gia. Vì vậy, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu các chủ thể khác tôn trọng quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Khi nảy sinh tranh chấp, pháp luật luôn khuyến khích các bên chủ thể chủ động thương lượng, hoà giải. Hòa giải là cách thức chủ yếu để chủ thể của quyền sở hữu tự bảo vệ quyền sở hữu của mình. Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp được áp dụng rất phổ biến trong đời sống. Lý do chính là quan niệm truyền thống của nhân dân ta là duy tình hơn duy lý. Người dân rất ngại phải liên quan đến việc kiện tụng. Chỉ trong những trường hợp bất đắc dĩ, không có cách giải quyết nào khác họ mới đưa nhau ra tòa. 1.2. Các hình thức tự bảo vệ quyền sở hữu Truy tìm và đòi lạ tài sản Thông thường, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp là người có quyền nắm giữ, quản lý tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp tài sản rời khỏi sự nắm giữ, quản lý của họ đến tay người khác hoàn toàn ngoài sự kiểm soát của họ. Để bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu tài sản của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền truy tìm tài sản của mình. Truy tìm tài sản là hình thức đầu tiên để tự bảo vệ quyền sở hữu, cũng là cơ sở để chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện được việc tự đòi lại tài sản hoặc kiện đòi lại tài sản. Khi phát hiện tài sản của mình đang nằm trong sự chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp của người khác, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể thực hiện quyền đòi lại tài sản. Điều 256 BLDS quy định “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó”. Dù tự đòi lại tài sản hay yêu cầu Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải trả lại tài sản, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp vẫn có vai trò trung tâm, quyết định trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Họ phải tự chứng minh quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình; chứng minh tài sản đang do người khác chiếm hữu trái pháp luật. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải xác định tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu không có căn cứ pháp của ai. Tự yêu cầu người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người này phải trả lại tài sản Yêu cầu ngăn chặn và chấm dứt hành vi trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản để thoả mãn nhu cầu của mình trong đời sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Mọi chủ thể được thực hiện các hành vi theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, trong trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nhận thấy chủ thể khác có hành vi cản trở, xâm phạm hoặc có khả năng xâm phạm đến việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, họ có quyền thông báo, nhắc nhở, yêu cầu chủ thể này phải chấm dứt các hành vi đó. Biện pháp tự bảo vệ trong trường hợp này tạo khả năng bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu một cách nhanh chóng, kịp thời, nhiều trường hợp có thể tránh được thiệt hại xảy ra. Ví dụ: Ông A xây nhà, vật liệu xây dựng nhà của ông A thường xuyên rơi xuống lóc nhà ông B gây hư hỏng mái nhà. Ông B có quyền yêu cầu ông A bằng các biện pháp của ông A không được để tình trạng như vậy xảy ra nữa. Yêu cầu bồi thường thiệt hại Đây là biện pháp bảo vệ được áp dụng khi hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu gây ra thiệt hại về tài sản. Yêu cầu bồi thường thiệt hại có thể là yêu cầu độc lập hoặc kết hợp với yêu cầu đòi lại tài sản. Thiệt hại có thể là do tài sản bị hư hỏng một phần hoặc toàn bộ, tài sản bị huỷ hoại, tiêu huỷ… Trong trường hợp chủ sở hữu không thể đòi lại tài sản, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể yêu cầu người có lỗi gây ra thiệt hại về tài sản phải bồi thường. Khi yêu cầu bồi thường thiệt hại, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có các chứng từ, giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí đã bỏ ra để khắc phục thiệt hại. Ở ví dụ trên, ông A đã gây thiệt hại về tài sản đối với ông B. Ông B có quyền yêu cầu ông A bồi thường đối với phần tài sản bị hư hỏng và ông A có nghĩa vụ phải trả khoản tiền bồi thường đó. Trong việc bảo vệ quyền sở hữu, vai trò tự bảo vệ của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp rất quan trọng. Tự bảo vệ vừa là quyền, trong nhiều trường hợp còn là trách nhiệm của chủ sở hữu trong việc bảo vệ quyền sở hữu. Biện pháp tự bảo vệ góp phần giảm thiểu các tranh chấp tại Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền, giúp giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm thời gian và chi phí. 1.3. Ưu điểm và hạn chế của phương thức tự bảo vệ quyền sở hữu Ưu điểm Thứ nhất, biện pháp tự bảo vệ là biện pháp mang tính định đoạt cao độ của chủ thể: Khi phát hiện ra những hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể chủ động linh hoạt lựa chọn cách thức bảo vệ phù hợp như: yêu cầu người xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, yêu cầu người chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Chủ thể có quyền thương lượng hòa giải bất cứ lúc nào trong quá trình giải quyết tranh chấp. Thứ hai, về cách thức, biện pháp tự bảo vệ có thể tiến hành dưới bất kỳ cách thức nào, miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội, tính rườm rà được hạn chế, trong khi việc khởi kiện hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết phải tuân thủ theo những điều kiện, trình tự, thủ tục nhất định như: điều kiện về chủ thể khởi kiện, thẩm quyền giải quyết, hình thức tiến hành… Thứ ba, về kinh tế, biện pháp tự bảo vệ là biện pháp có tính kinh tế cao nhất do tiết kiệm được thời gian, chi phí tốn kém cho việc giải quyết tranh chấp. Trong khi việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp khởi kiện không chỉ tốn kém về thời gian cho việc giải quyết theo trình tự tố tụng mà còn tốn kém chi phí cho việc tham gia tố tụng, chi phí giám định. Thứ tư, xét về mặt tình cảm, với truyền thống duy tình của người Việt Nam, thì phương thức tự dàn xếp này nếu thành công sẽ giữ gìn được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các bên, duy trì được tình làng nghĩa xóm Thứ năm, biện pháp tự bảo vệ là biện pháp mang tính kịp thời, tạo khả năng ngăn chặn hành vi xâm phạm ngay từ đầu. Ngay khi phát hiện ra có hành vi xâm phạm hoặc khả năng xâm phạm, chủ thể có thể áp dụng ngay lập tức mà không cần chờ bất kỳ một thủ tục nào. Đặc điểm này cũng phần nào tránh được vụ việc xâm phạm trở nên nghiêm trọng hơn và càng quan trọng hơn khi biết được phần lớn các vụ án hình sự xuất phát từ các tranh chấp dân sự liên quan đến sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu. Hạn chế Biện pháp tự bảo vệ bên cạnh những ưu điểm về hiệu quả bảo vệ như: nhanh chóng, kịp thời, một hạn chế lớn nhất của biện pháp này là hiệu quả bảo vệ không cao do không được bảo đảm bằng tính cưỡng chế nhà nước. Yêu cầu của chủ thể không được bảo đảm bằng cơ chế mang tính quyền lực Nhà nước mà hoàn toàn trông chờ, phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện chí của bên xâm phạm. Do vậy, nếu bên xâm phạm không tự nguyện, thiện chí chấm dứt hành vi xâm phạm, khắc phục hậu quả đã gây ra thì biện pháp này khó mang lại hiệu quả. Thêm nữa, việc không có sự can thiệp của những cơ quan có thẩm quyền mang tính quyền lực nhà nước, các chủ thể dễ lâm vào tình trạng tự do thể hiện ý chí và hành động của mình không theo khuôn khổ pháp luật, điều này dễ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về cả vật chất lẫn tinh thần của các bên khi tự giải quyết tranh chấp. 2. Bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức kiện dân sự 2.1. Khái niệm chung về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức kiện dân sự Bên cạnh quyền tự bảo vệ, pháp luật dân sự còn quy định cho chủ sở hữu , người chiếm hữu hợp pháp có quyền kiện dân sự để yêu cầu tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Điều 255 Bộ luật dân sự quy định: “Chủ sở hữu, những người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại” Những phương thức này gọi chung là phương thức kiện dân sự - phương thức được áp dụng khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể tự mình bảo vệ được quyền sở hữu trước hành vi xâm hại của chủ thể khác gây ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền của chủ sở hữu của mình. Xuất phát từ tính chất đa dạng trong bản thân sự xâm hại tới quyền sở hữu mà phương thức kiện dân sự cũng có rất nhiều loại khác nhau. Chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp có quyền lựa chọn một trong ba phương thức kiện sau đây khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định 2.2 Các hình thức kiện dân sự Kiện đòi lại tài sản Phương thức kiện đòi tài sản khá phổ biến khi các chủ sở hữu muốn lựa chọn hình thức kiện dân sự để bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Kiện đòi lại tài sản là việc người chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp kiện lên tòa án, các cơ quan khác yêu cầu người đang chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của mình trả lại tài sản. Khi xây dựng cơ chế kiện đòi lại tài sản, các nhà làm luật Việt Nam đã rất cân nhắc trong việc làm sao phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu bảo vệ chủ sở hữu với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình cũng như bảo đảm tính ổn định trong lưu thông dân sự. Vì vậy, một mặt, BLDS đã thiết kế các quy tắc kiện đòi lại tài sản dựa vào tiêu chí phân biệt giữa người chiếm hữu ngay tình và người chiếm hữu không ngay tình và mặt khác, dựa vào việc phân định giữa tài sản phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Tuy nhiên điều kiện chung áp dụng cho phương thức kiện đòi tài sản được quy định tại Điều 256, 257, 258 BLDS khi có các điều kiện sau: - Vật rời khỏi chủ sở hữu hay dời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ; hoặc theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù như tặng cho, thừa kế theo di chúc; - Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp; - Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp; - Vật là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp khác do pháp luật quy định. Tính không thống nhất giữa các quy định của BLDS về quyền đòi lại tài sản có thể nhận thấy được. Điều 256 quy định người có quyền đòi lại tài sản trong trường hợp tài sản bị chiếm hữu, bị sử dụng không có căn cứ pháp luật từ một người khác là “chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp”. Trong khi đó ở Điều 257 và 258, lần lượt quy định về quyền đòi lại tài sản không phải đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình và quyền đòi lại động sản phải đăng kí quyền sở hữu, bất động sản từ người chiếm hữu, quy định chỉ “chủ sở hữu” mới có quyền đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình từ người chiếm hữu ngay tình. Thực tế cho thấy người chiếm hữu hợp pháp cũng cần có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình. Ví dụ: A cho B thuê chiếc xe máy, B cho mượn, C bán cho D, D là người ngay tình. Trong trường hợp này người chiếm hữu hợp pháp là B cần được trao quyền để đòi lại tài sản bởi lí do: thực tế thấy rằng tài sản trong trường hợp này không chỉ chuyển giao giữa ba người A, B, C mà được chuyển giao cho D hoặc một người E tiếp theo, cần trao quyền cho B để thời hiệu khởi kiện không bị rút ngắn, khi B kiện thì bớt rắc rối hơn khi A kiện đến người sau cùng là người đang sử dụng, chiếm hữu vật. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản của có quyền kiện tới toà án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đây được gọi là phương thức kiện trái quyền bởi vì nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp pháp hoặc bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hoặc tài sản bị tiêu huỷ… Lúc này chủ sở hữu không lấy lại được tài sản của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại. Tuỳ từng trường hợp, chủ sở hữu có quyền lựa chọn ba hình thức khởi kiện khác nhau. Nếu hành vi gây thiệt hại cho tài sản nằm trong khuôn khổ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng một nghĩa vụ trong hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện vi phạm hợp đồng. Nếu hành vi gây thiệt hại không phải là hành vi vi phạm hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại cho tài sản người khác cấu thành tội phạm hình sự, chủ sở hữu cũng có thể yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự (bồi thường thiệt hại) trong phiên toà hình sự hoặc tách ra thành vụ kiện dân sự để giải quyết trong phiên toà dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng. Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc châm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp Đây là phương thức cho phép chủ sở hữu kiện tới toà án khi một người nào đó có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp để quyền yêu cầu người
Luận văn liên quan