Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, trong khi đó mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, nhu cầu đòi hỏi của thị trường ngày càng cao về chất lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm. Chính vì vậy, để tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp không thể chỉ đơn giản là quan tâm đến vấn đề có và sử dụng tài sản cố định (TSCĐ) mà điều quan trọng là còn phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu để bảo toàn, phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn cố định. Muốn vậy doanh nghiệp phải có chế độ quản lý thích đáng, toàn diện đối với TSCĐ, quản lý TSCĐ một cách khoa học sẽ giúp cho việc kế toán TSCĐ được chính xác, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chống thất thoát tài sản mà công cụ quan trọng chính là kế toán tài chính.
Ở Việt Nam trước những năm đầu của thập kỉ 90, người ta mới chỉ biết đến một loại TSCĐ duy nhất là TSCĐ hữu hình. Khái niệm TSCĐ vô hình còn rất mơ hồ và hầu như chưa được biết đến. Song song với thực tế này, kế toán TSCĐ vô hình cũng là một vấn đề khá mới mẻ cho các doanh nghiệp Việt Nam tuy rằng nó đã được đề cập đến trong chế độ kế toán hiện hành (áp dụng từ 11/1995). Các vấn đề về xác định có những loại TSCĐ vô hình nào, nguyên giá và thời gian khấu hao của chúng đã được trình bày trong Quyết định số 1062/TC - CĐTC ngày 14/11/1996, sau đó là Quyết định số 166/1999/QĐ - TC ngày 30/12/1999 và mới gần đây nhất là Chuẩn mực số 4: TSCĐ vô hình, tuy nhiên để vận dụng những quyết định và chuẩn mực này trong thực tiễn kế toán tại các doanh nghiệp khi còn là một vấn đề lớn. Và cũng đã đến lúc những nhà quản lý phải thoát ra khỏi bảng cân đối tài sản để chú ý đến những TSCĐ vô hình đang đóng vai trò mấu chốt cho sự thành công của doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại.
Nhận thức được vấn đề này, em đã chọn đề tài: "Một số vấn đề về tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp Việt Nam" để làm đề án môn học chuyên ngành kế toán tổng hợp với mong muốn đóng góp phần nào cho phạm trù tài sản vẫn còn mới mẻ này.
Kết cấu đề tài gồm các nội dung chính sau:
I. Lý luận chung về tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp.
II. Kế toán TSCĐ vô hình theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán của một số nước trên thế giới.
III. Thực trạng tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong chế độ, thực tế vận dụng chế độ ở Việt Nam.
IV. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam.
28 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2240 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về tổ chức quản lý và kế toán tài sản cố định vô hình trong doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, trong khi đó mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, nhu cầu đòi hỏi của thị trường ngày càng cao về chất lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm. Chính vì vậy, để tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp không thể chỉ đơn giản là quan tâm đến vấn đề có và sử dụng tài sản cố định (TSCĐ) mà điều quan trọng là còn phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu để bảo toàn, phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn cố định. Muốn vậy doanh nghiệp phải có chế độ quản lý thích đáng, toàn diện đối với TSCĐ, quản lý TSCĐ một cách khoa học sẽ giúp cho việc kế toán TSCĐ được chính xác, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chống thất thoát tài sản mà công cụ quan trọng chính là kế toán tài chính.
Ở Việt Nam trước những năm đầu của thập kỉ 90, người ta mới chỉ biết đến một loại TSCĐ duy nhất là TSCĐ hữu hình. Khái niệm TSCĐ vô hình còn rất mơ hồ và hầu như chưa được biết đến. Song song với thực tế này, kế toán TSCĐ vô hình cũng là một vấn đề khá mới mẻ cho các doanh nghiệp Việt Nam tuy rằng nó đã được đề cập đến trong chế độ kế toán hiện hành (áp dụng từ 11/1995). Các vấn đề về xác định có những loại TSCĐ vô hình nào, nguyên giá và thời gian khấu hao của chúng đã được trình bày trong Quyết định số 1062/TC - CĐTC ngày 14/11/1996, sau đó là Quyết định số 166/1999/QĐ - TC ngày 30/12/1999 và mới gần đây nhất là Chuẩn mực số 4: TSCĐ vô hình, tuy nhiên để vận dụng những quyết định và chuẩn mực này trong thực tiễn kế toán tại các doanh nghiệp khi còn là một vấn đề lớn. Và cũng đã đến lúc những nhà quản lý phải thoát ra khỏi bảng cân đối tài sản để chú ý đến những TSCĐ vô hình đang đóng vai trò mấu chốt cho sự thành công của doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại.
Nhận thức được vấn đề này, em đã chọn đề tài: "Một số vấn đề về tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp Việt Nam" để làm đề án môn học chuyên ngành kế toán tổng hợp với mong muốn đóng góp phần nào cho phạm trù tài sản vẫn còn mới mẻ này.
Kết cấu đề tài gồm các nội dung chính sau:
I. Lý luận chung về tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp.
II. Kế toán TSCĐ vô hình theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán của một số nước trên thế giới.
III. Thực trạng tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong chế độ, thực tế vận dụng chế độ ở Việt Nam.
IV. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ KẾ TOÁN TSCĐ VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP
1. Sự cần thiết phải tổ chức khoa học công tác quản lý TSCĐ nói chung và TSCĐ vô hình nói riêng
Sản xuất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người: "Nếu sản xuất chỉ ngừng một ngày thôi, chứ không nói đến ngừng một vài tuần, ngừng một vài năm thì xã hội cũng bị tiêu vong" (Marx- Angel). TSCĐ là cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là trong cơ chế thị trường thì TSCĐ còn là yếu tố rất quan trọng để tạo nên sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo số liệu của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (IFAC) năm 1998, từ 50 - 90% gía trị do một công ty tạo ra là nhờ vào việc quản trị các TSCĐ vô hình, như vậy việc quản trị TSCĐ hữu hình chỉ tạo ra 10 - 50% giá trị. Sự chênh lệch này sẽ tiếp tục tăng lên khi nền kinh tế trí thức ngày càng trở thành một thực tế khách quan. Nếu trong những năm 70, tương quan giữa giá trị sổ sách và giá trị thị trường của công ty là 1 -1 thì hiện nay tương quan đó là 1 - 6, những số liệu trên phản ánh một thực tế rõ ràng là TSCĐ vô hình "đang lên ngôi".
Việc theo dõi phản ánh đầy đủ tình hình TSCĐ nói chung và TSCĐ vô hình nói riêng là nhiệm vụ quan trọng của công tác kế toán, tổ chức kế toán TSCĐ tốt không những góp phần nâng cao chất lượng quản lý, hiệu quả sử dụng TSCĐ mà còn có ý nghĩa thiết thực trong quá trình định hướng đầu tư.
Chính vì tầm quan trọng đã được trình bày ở trên mà chúng ta thấy sự cần thiết tổ chức quản lý TSCĐ nói chung, TSCĐ vô hình nói riêng một cách khoa học là điều tất yếu.
2. TSCĐ vô hình trong chế độ kế toán và Chuẩn mực kế toán
2.1. Chuẩn mực kế toán quốc tế về TSCĐ vô hình (IAS 38)
Theo chuẩn mực này, một TSCĐ vô hình là một tài sản phi tiền tệ có thể xác định được mà không cần có nội dung vật chất, tài sản này được giữ để sử dụng trong quá trình sản xuất hoặc cung cấp hàng hoá và dịch vụ, cho các bên khác thuê hoặc phục vụ mục đích hành chính. Một tài sản như vậy được kiểm soát và phân biệt rõ ràng với lợi thế thương mại của một doanh nghiệp.
Một TSCĐ vô hình được ghi nhận là tài sản khi có đủ 2 điều kiện:
Có khả năng là doanh nghiệp sẽ thu được các lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản này.
Giá trị của tài sản có thể tính toán một cách tin cậy.
Tất cả các chi phí khác liên quan đến TSCĐ vô hình được tính vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (như chi phí nghiên cứu, đào tạo, quảng cáo và chi phí chuẩn bị).
Một TSCĐ vô hình cần được ghi nhận ban đầu theo nguyên gia cho dù tài sản đó có được từ trao đổi với bên ngoài hay phát sinh trong nội bộ. Chi phí phát sinh sau đó cho TSCĐ vô hình được ghi nhận là chi phí nếu chỉ để duy trì khả năng hoạt động theo tiêu chuẩn của tài sản đó. Những chi phí này có thể được vốn hoá nếu doanh nghiệp có thể thu được các lợi ích kinh tế lớn hơn mức hoạt động theo tiêu chuẩn ban đầu.
Đối với bất kỳ một dự án nội bộ nào nhằm tạo ra một TSCĐ vô hình cần phân biệt giữa giai đoạn nghiên cứu và giai đoạn phát triển, chi phí trong giai đoạn nghiên cứu được hạch toán vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Chi phí phát triển được ghi nhận là một TSCĐ vô hình nếu đáp ứng được tất cả các điều kiện sau:
Tính khả thi về mặt kỹ thuật của việc hoàn thiện TSCĐ vô hình để có thể sử dụng được hoặc để bán.
Dự tính hoàn thiện TSCĐ vô hình và sử dụng hoặc bán tài sản này.
Khả năng sử dụng hoặc bán tài sản vô hình.
Làm thế nào để TSCĐ vô hình có thể tạo ra các lợi ích kinh tế trong tương lai.
Khả năng cung cấp đầy đủ về kỹ thuật, tài chính và các nguồn lực khác để hoàn thiện việc phát triển và sử dụng hoặc bán tài sản vô hình đó.
Khả năng xác định chi phí.
Một TSCĐ vô hình được tính khấu hao một cách có hệ thống trong thời gian sử dụng ước tính tốt nhất. Có một giả định gây tranh cãi là thời gian hữu dụng ước tính của một TSCĐ vô hình sẽ không vượt quá 20 năm kể từ ngày có tài sản để sử dụng. Phương pháp khấu hao được sử dụng cần phản ánh cách thức doanh nghiệp sử dụng các lợi ích kinh tế do tài sản tạo ra. Nếu cách thức đó không thể xác định được một cách đáng tin cậy thì doanh nghiệp cần áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng.
Lợi thế thương mại phát sinh nội bộ, nhãn hiệu hàng hoá, tên công tố, quyền ấn bản, danh sách khách hàng và các khoản có tính chất tương tự không được ghi nhận là tài sản. Trong trường hợp sáp nhập doanh nghiệp, chi phí cho một TSCĐ vô hình không đáp ứng cả tiêu chí xác định lẫn tiêu chí ghi nhận cho một TSCĐ vô hình sẽ được tính vào lợi thế thương mại.
2.2. Chuẩn mực số 4 về TSCĐ vô hình của Việt Nam
Theo Quyết định số 166/1999/QĐ - TC ngày 30/12/1999 thì một khoản chi phí thực tế doanh nghiệp bỏ ra thoả mãn hai điều kiện: (1) Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên và (2) có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình.
Ngày nay với sự phát triển nền kinh tế thị trường, sự toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, hàng rào thuế quan giữa các quốc gia gần như được bãi bỏ hoàn toàn. Những quy định pháp luật về quốc tế hoá đầu tiên của WTO hay AFTA đã nhanh chóng được thực hiện, làm tiền đề cho quá trình biến mất biên giới giữa các quốc gia. Nhận thức được vấn đề này, ngày 31/12/2001 Bộ Tài chính ban hành Quyết định 149/2001/BTC về việc ban hành và công bố bốn (04) chuẩn mực kế toán Việt Nam (đợt 1) trong đó có Chuẩn mực số 04: TSCĐ vô hình mà dựa trên nền tảng cơ bản là Chuẩn mực kế toán quốc tế với mục đích làm cho hệ thống kế toán Việt Nam ngày càng phù hợp hơn với điều kiện hiện nay.
Theo Chuẩn mực số 04, TSCĐ vô hình là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình.
Các doanh nghiệp thường đầu tư để có các nguồn lực vô hình như: quyền sử dụng đất có thời hạn, phần mềm máy vi tính, bằng sáng chế, bản quyền, giấy phép khai thác thuỷ sản, hạn ngạch xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhượng quyền, quan hệ kinh doanh với khách hàng hoặc nhà cung cấp, sự trung thành của khách hàng, thị phần và quyền tiếp thị... Tuy nhiên không phải tất cả các nguồn lực vô hình trên đều được vốn hoá thành TSCĐ vô hình mà muốn được coi là TSCĐ vô hình thì phải xem xét 3 yếu tố: tính có thể xác định được, khả năng kiểm soát nguồn lực và tính chắc chắn của lợi ích kinh tế trong tương lai. Nếu một nguồn lực vô hình không thoả mãn định nghĩa TSCĐ vô hình thì chi phí phát sinh để tạo ra nguồn lực vô hình đó phải ghi nhận là chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ hoặc chi phí trả trước. Riêng nguồn lực vô hình doanh nghiệp có được thông qua việc sáp nhập doanh nghiệp có tính chất mua lại được ghi nhận là lợi thế thương mại vào ngày phát sinh nghiệp vụ mua.
Tính có thể xác định được:
TSCĐ vô hình phải là tài sản có thể xác định được để có thể phân biệt TSCĐ đó với lợi thế thương mại. Một TSCĐ vô hình có thể xác định riêng biệt khi doanh nghiệp có thể đem TSCĐ vô hình đó cho thuê, bán, trao đổi hoặc thu được lợi ích kinh tế cụ thể từ tài sản đó trong tương lai.
Khả năng kiểm soát:
Doanh nghiệp nắm quyền kiểm soát một tài sản nếu doanh nghiệp có quyền thu lợi ích kinh tế trong tương lai mà tài sản đó mang lại, đồng thời cũng có khả năng hạn chế sự tiếp cận của các đối tượng khác đối với lợi ích đó. Khả năng kiểm soát của doanh nghiệp đối với lợi ích kinh tế trong tương lai từ TSCĐ vô hình thông thường có nguồn gốc từ quyền pháp lý. Chính vì vậy khi doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên lành nghề và thông qua việc đào tạo có thể xác định được sự nâng cao kiến thức của nhân viên sẽ mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai hoặc có danh sách khách hàng hay thị phần nhưng do doanh nghiệp không có đủ khả năng kiểm soát các lợi ích kinh tế đó nên cũng không được ghi nhận là TSCĐ vô hình.
Lợi ích kinh tế trong tương lai:
Lợi ích kinh tế trong tương lai mà TSCĐ vô hình đem lại cho doanh nghiệp có thể là: tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí hoặc lợi ích khác xuất phát từ việc sử dụng TSCĐ vô hình.
Như vậy, trên nền cơ sở là Chuẩn mực kế toán quốc tế thì Chuẩn mực số 04 của Việt Nam đã có cái nhìn tổng quan về TSCĐ vô hình khác biệt so với trước đây nhằm phù hợp với xu thế chung trên toàn thế giới.
Theo Quyết định số 166/1999 QĐ - TC ngày 30/12/1999 thì chi phí thành lập doanh nghiệp là các chi phí doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình chuẩn bị cho sự thành lập doanh nghiệp được coi là một TSCĐ vô hình của doanh nghiệp. Song đến Chuẩn mực số 04, chi phí thành lập doanh nghiệp lại không được coi là TSCĐ vô hình mà phải ghi nhận là chi phí kinh doanh hoặc chi phí trả trước. Đây là sự tiến bộ trong việc nhận định về TSCĐ vô hình và rất phù hợp với mong muốn của các doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy là vì khi coi chi phí thành lập doanh nghiệp chỉ là khoản chi phí trả trước thì doanh nghiệp có thể nhanh bù đắp được khoản chi phí này, đồng thời việc tính chi phí thành lập doanh nghiệp vào chi phí kinh doanh làm tăng chi phí của doanh nghiệp trong kỳ, điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và doanh nghiệp có thể giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho Nhà nước.
Thứ hai, trước đây chi phí nghiên cứu phát triển được vốn hoá thành TSCĐ vô hình thì nay trong Chuẩn mực số 04, có sự phân biệt rõ ràng giai đoạn nghiên cứu và giai đoạn triển khai, toàn bộ chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu không được ghi nhận là TSCĐ vô hình mà được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ, điều này là hợp lý vì nếu các công trình nghiên cứu thất bại thì nó không có giá trị sử dụng và chính vì vậy sẽ không thoả mãn điều kiện "có thời gian sử dụng từ một năm trở lên".
II. KẾ TOÁN TSCĐ VÔ HÌNH THEO CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VÀ KẾ TOÁN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1. Kế toán TSCĐ vô hình theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam
Một tài sản vô hình được ghi nhận TSCĐ vô hình phải thoả mãn đồng thời:
- Là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình.
- Bốn tiêu chuẩn ghi nhận:
+ Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai do tài sản đó mang lại.
+ Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy.
+ Thời gian sử dụng ước tính trên một năm.
+ Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành.
TSCĐ vô hình phải được xác định giá trị ban đầu theo nguyên giá.
Tài khoản sử dụng: Tài khoản 213 - TSCĐ vô hình
Kết cấu và nội dung phản ánh của Tài khoản 213 - TSCĐ vô hình:
Bên Nợ: Nguyên giá TSCĐ vô hình tăng
Bên Có: Nguyên giá TSCĐ vô hình giảm
Số dư bên Nợ:
Nguyên giá TSCĐ vô hình hiện có ở doanh nghiệp
Tài khoản 213 - TSCĐ vô hình có 6 tài khoản cấp 2:
Tài khoản 2131 - Quyền sử dụng đất: Phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra có liên quan trực tiếp tới sử dụng, gồm: tiền chi ra để có quyền sử dụng đất, chi phí cho đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng...
Tài khoản 2132 - Quyền phát hành : phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành.
Tài khoản 2133 - Bản quyền, bằng sáng chế: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực thế chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế.
Tài khoản 2134 - Nhãn hiệu hàng hoá: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hoá.
Tài khoản 2135 - Phần mềm máy tính: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy tính.
Tài khoản 2136 - Giấy phép và giấy nhượng quyền: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các khoản chi ra để doanh nghiệp có được giấy phép và giấy phép nhượng quyền thực hiện công việc đó.
Tài khoản 2138 - TSCĐ vô hình khác: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình khác chưa quy định phản ánh ở các tài khoản trên.
1.1. Xác định nguyên giá TSCĐ vô hình trong từng trường hợp
- Mua TSCĐ vô hình riêng biệt: nguyên giá TSCĐ vô hình mua riêng biệt bao gồm giá mua (trừ các khoản được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá), các khoản thuế (không gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính.
- Mua TSCĐ vô hình từ việc sáp nhập doanh nghiệp: nguyên giá TSCĐ vô hình hình thành trong quá trình sáp nhập doanh nghiệp có tính chất mua lại là giá trị hợp lý của tài sản đó vào ngày mua (ngày sáp nhập doanh nghiệp). Doanh nghiệp phải xác định nguyên giá TSCĐ vô hình một cách đáng tin cậy để ghi nhận tài sản đó một cách riêng biệt.
- TSCĐ vô hình được Nhà nước cấp hoặc biếu tặng: nguyên giá TSCĐ vô hình được xác định theo giá trị hợp lý ban đầu cộng các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính.
- TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi: Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình khác hoặc không tương tự được xác định theo giá trị hợp lý của TSCĐ vô hình nhận về. Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình tương tự hoặc do được bán để đổi lấy quyền sở hữu một tài sản tương tự thì được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ vô hình đem trao đổi.
- TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp: Doanh nghiệp phải phân biệt giai đoạn nghiên cứu với giai đoạn triển khai. Toàn bộ chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu không được ghi nhận là TSCĐ vô hình mà ghi nhận là chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Tài sản vô hình tạo ra trong giai đoạn triển khai được ghi nhận là TSCĐ vô hình nếu thoả mãn bảy điều kiện sau:
Tính khả thi về mặt kỹ thuật đảm bảo cho việc hoàn thành và đưa TSCĐ vô hình vào sử dụng hay để bán.
Doanh nghiệp dự định hoàn thành tài sản vô hình để sử dụng hay để bán.
Doanh nghiệp có khả năng sử dụng hoặc bán tài sản vô hình đó.
Tài sản vô hình đó tạo ra được lợi ích kinh tế trong tương lai.
Có đầy đủ các nguồn lực kỹ thuật, tài chính... để hoàn tất các giai đoạn triển khai, bán hoặc sử dụng tài sản vô hình đó.
Có khả năng xác định chắc chắn toàn bộ chi phí trong giai đoạn triển khai để tạo ra tài sản vô hình đó.
Ước tính có đủ tiêu chuẩn về thời gian sử dụng và giá trị theo quy định cho TSCĐ vô hình.
Nguyên giá TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp gồm các chi phí liên quan trực tiếp hoặc được phân bổ theo tiêu thức hợp lý và nhất quán từ các khâu thiết kế, xây dựng, sản xuất thử nghiệm đến chuẩn bị đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính.
- Chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu được tính vào nguyên giá TSCĐ vô hình nếu thoả mãn đồng thời 2 điều kiện:
Chi phí này có khả năng làm cho TSCĐ vô hình tạo ra có lợi ích kinh tế trong tương lai nhiều hơn mức hoạt động được đánh giá ban đầu.
Chi phí này được đánh giá một cách chắc chắn và gắn liền với một TSCĐ vô hình cụ thể.
- Sau khi ghi nhận ban đầu, trong quá trình sử dụng, TSCĐ vô hình được xác định theo nguyên giá, khấu hao luỹ kế và giá trị còn lại.
1.2. Khấu hao TSCĐ vô hình
Theo quy định, các doanh nghiệp có quyền tự xác định thời gian khấu hao các loại TSCĐ vô hình của mình tối đa là 20 năm. Khi xác định thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô hình làm căn cứ tính khấu hao cần xem xét các yếu tố:
+ Khả năng sử dụng dự tính của tài sản.
+ Vòng đời của sản phẩm và các thông tin chung về các ước tính liên quan đến thời gian sử dụng hữu ích của các loại tài sản giống nhau được sử dụng trong điều kiện tương tự.
+ Sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ
+ Tính ổn định của ngành sử dụng tài sản đó và sự thay đổi về nhu cầu thị trường đối với các sản phẩm hoặc việc cung cấp dịch vụ tài sản đó mang lại.
+ Hoạt động dự tính của đối thủ cạnh tranh hiện tại hoặc tiềm năng.
+ Mức chi phí cần thiết để duy trì, bảo dưỡng.
+ Thời gian kiểm soát tài sản, những hạn chế về mặt pháp lý, về quá trình sử dụng tài sản.
+ Sự phụ thuộc thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô hình với các tài sản khác trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao phải phản ánh cách thức thu hồi lợi ích kinh tế từ tài sản đó của doanh nghiệp. Phương pháp khấu hao cho từng TSCĐ vô hình được áp dụng thống nhất qua nhiều thời kỳ và có thể được thay đổi khi có sự thay đổi đáng kể cách thức thu hồi lợi ích kinh tế của doanh nghiệp. Chi phí khấu hao cho từng thời kỳ phải được ghi nhận là chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh trừ khi chi phí đó được tính vào giá trị của tài sản khác.
= -
Giá trị thanh lý được ước tính khi TSCĐ vô hình được hình thành đưa vào sử dụng bằng cách dựa trên giá bán phổ biến ở cuối thời gian sử dụng hữu ích ước tính của một tài sản tương tự và đã hoạt động trong các điều kiện tương tự. Giá trị thanh lý ước tính không tăng lên khi có thay đổi về giá cả hoặc giá trị.
Các doanh nghiệp phải xem xét lại thời gian khấu hao và phương pháp khấu hao TSCĐ vô hình ít nhất vào cuối mỗi năm tài chính. Nếu thời gian sử dụng hữu ích ước tính của tài sản khách biệt nhiều so với các ước tính trước đó thì thời gian khấu hao phải được thay đổi tương ứng. Nếu có sự thay đổi phương pháp khấu hao TSCĐ vô hình thì phải điều chỉnh chi phí khấu hao cho năm hiện hành và các năm tiếp theo.
1.3. Hạch toán kế toán một số hoạt động kinh tế chủ yếu
- Mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (giá mua chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 1332 - Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK 112 - Tiền gửi ngân hàng; hoặc
Có TK 141 - Tạm ứng; hoặc
Có TK 331 - Phải trả cho người bán.
- TSCĐ vô hình được hình thà