Đề tài Mould Fermentations

Vi sinh thực phẩm là một trong những môn học cơ sở ngành trong chương trình đào tạo ngành công nghệ thực phẩm. Nó cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về vi sinh vật, các quá trình dinh dưỡng, sinh trưởng, phát triển, vai trò của chúng trong cuộc sống nói chung và trong công nghệ thực phẩm nói riêng cũng như giới thiệu các kĩ thuật cơ bản trong phân tích, kiểm nghiệm vi sinh vật. Do đó, chúng ta - những sinh viên ngành công nghệ thực phẩm, phải hoàn thành các yêu cầu của môn học này trước khi học các môn chuyên ngành sau này. Để có thể nắm chắc những nội dung của môn học, sinh viên phải có sự đầu tư, tìm hiểu và niềm đam mê học hỏi. Chính vì vậy, việc chọn và thực hiện đề tài tiểu luận là hết sức cần thiết, nó giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề hơn và rèn luyện thêm nhiều kĩ năng khác. Nhóm chúng em hi vọng đề tài “Mould Fermentations”- lên men nấm mốc, sẽ góp phần vào tư liệu học tập cho môn học, giúp cho việc tìm hiểu, nghiên cứu môn học trở nên dễ dàng hơn. Lên men nấm mốc là một phần trong nội dung “thực phẩm lên men và vi sinh vật thực phẩm”. Đề tài giới thiệu về những đặc điểm hình thái, cấu tạo, phát triển của nấm mốc, đặc biệt chú trọng đến các sản phẩm lên men có sự tham gia của nấm mốc. Qua đó, có thể hệ thống hóa một phần kiến thức giúp ích cho việc học tập của sinh viên chuyên ngành và những ai quan tâm đến lĩnh vực này.

doc54 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mould Fermentations, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bc & da TIỂU LUẬN VI SINH THỰC PHẨM FOOD FERMENTATIONS TÊN ĐỀ TÀI: õõõõõ TP.Hồ Chí Minh,ngày 23 thàng 5 năm 2011 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 NỘI DUNG 4 I.Giới thiệu chung về nấm mốc 4 1. Hình thái và cấu tạo 4 1.1.Hình thái của nấm mốc 4 1.2.Cấu tạo của nấm mốc 5 1.2.1.Khuẩn ty 5 1.2.2.Bào tử 6 1.2.2.1.Bào tử vô tính 6 1.2.2.2.Bào tử hữu tính 6 2.Các dạng biến hóa của hệ sợi nấm 8 3.Sinh sản ở nấm mốc 9 3.1.Sinh sản sinh dưỡng 9 3.2.Sinh sản vô tính 9 3.3.Sinh sản hữu tính 9 II.Lên men nấm mốc 9 1. Tempeh(tương nén) 9 2.Soy Sauce and Rice Wine 17 2.1. Soy Sauce (nước tương) 18 2.2 Rice wine (rượu gạo) 22 3. Mycoprotein 26 3.1. Nguồn gốc 26 3.2. Sản xuất mycoprotein 27 3.3. Các biến đổi của các yếu tố trong quá trình lên men 29 KẾT LUẬN 30 TÀI LIỆU THAM KHẢO 31 MỞ ĐẦU Vi sinh thực phẩm là một trong những môn học cơ sở ngành trong chương trình đào tạo ngành công nghệ thực phẩm. Nó cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về vi sinh vật, các quá trình dinh dưỡng, sinh trưởng, phát triển, vai trò của chúng trong cuộc sống nói chung và trong công nghệ thực phẩm nói riêng cũng như giới thiệu các kĩ thuật cơ bản trong phân tích, kiểm nghiệm vi sinh vật. Do đó, chúng ta - những sinh viên ngành công nghệ thực phẩm, phải hoàn thành các yêu cầu của môn học này trước khi học các môn chuyên ngành sau này. Để có thể nắm chắc những nội dung của môn học, sinh viên phải có sự đầu tư, tìm hiểu và niềm đam mê học hỏi. Chính vì vậy, việc chọn và thực hiện đề tài tiểu luận là hết sức cần thiết, nó giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề hơn và rèn luyện thêm nhiều kĩ năng khác. Nhóm chúng em hi vọng đề tài “Mould Fermentations”- lên men nấm mốc, sẽ góp phần vào tư liệu học tập cho môn học, giúp cho việc tìm hiểu, nghiên cứu môn học trở nên dễ dàng hơn. Lên men nấm mốc là một phần trong nội dung “thực phẩm lên men và vi sinh vật thực phẩm”. Đề tài giới thiệu về những đặc điểm hình thái, cấu tạo, phát triển của nấm mốc, đặc biệt chú trọng đến các sản phẩm lên men có sự tham gia của nấm mốc. Qua đó, có thể hệ thống hóa một phần kiến thức giúp ích cho việc học tập của sinh viên chuyên ngành và những ai quan tâm đến lĩnh vực này. Để hoàn thành đề tài này, chúng em đã cố gắng tìm hiểu các giáo trình, tài liệu có liên quan trên cơ sở nền tảng kiến thức cơ bản về vi sinh đại cương, phân tích, chọn lọc và tổng hợp nội dung phù hợp với nhiều đối tượng. NỘI DUNG Giới thiệu chung về nấm mốc Nấm mốc (molds hay moulds), còn được gọi là nấm sợi, là tên chung chỉ cho tất cả những sinh vật không phải là nấm men cũng không phải là các nấm mũ lớn. Tuy nhiên ở tất cả các giai đoạn chưa sinh mũ nấm thì khuẩn ti thể (hệ sợ nấm) của nấm lớn vẫn được coi là nấm sợi và được nghiên cứu về các mặt sinh lý, sinh hóa, di truyền...như các sợi nấm khác. Chúng phân bố rộng rãi trong thiên nhiên. Trong tự nhiên nấm sợ phân bố rộng rãi và tham gia tích cực và các vòng tuần hoàn vật chất, nhất là quá trình phân giải chất hữu cơ và hình thành chất mùn. Nhiều nấm sợi ký sinh trên người, động vật, thực vật và gây ra các bệnh nấm khá nguy hiểm. Nhiều nấm sợi sinh ra các độc tố nấm có thể gây ra bệnh ưng thư và nhiều bệnh tật khác. 1. Hình thái và cấu tạo của nấm mốc 1.1.Hình thái của nấm mốc Nấm mốc (nấm sợi) là nhóm vi sinh vật có kết cấu dạng sợi phân nhánh. Tế bào cáu tạo hoàn chỉnh, kích thước lớn có thể là đươn bào đa nhân hoặc đa bào đa nhân. Sợ nấm (hypha) có dạng hình ống phân nhánh bên trong chứa chất nguyên sinh có thể lưu động. Về chiều dài chúng có thể sinh trưởng vô hạn nhưng về đường kính thì thường chỉ thay đổi trong phạm vi 1-30µm. Đầu sợi nấm có hình viên trụ, phần đầu gọi là vùng kéo dài. Lúc sợi nấm sinh trưởng mạnh mẽ đây là vùng thành tế bào phát triển nhanh chóng. Phần ngọn gồm đỉnh sợi nấm, phần tạo ra thành tế bào, phần tăng trưởng. Đỉnh sợi nấm gồm một chóp nón, không tăng trưởng và có tác dụng bảo vệ cho phần ngọn của sợi nấm. Đây là phần mà chất nguyên sinh không có nhân và ít chứa các cơ quan bào tử. Phần này rất dễ tách rời với các phần còn lại của ngọn sợi nấm vì dưới chóp nón là một phần có thành rất mỏng. Dưới nữa là phần tạo ra thành tế bào. Các sợi nhỏ trên thành tế bào xếp ngang. Dưới nữa là phần tăng trưởng. Thành của phần này có cấu trúc sợi dạng mạng lưới. Ngọn sợi nấm tăng trưởng được là nhờ phần này. Dưới nữa là phần thành cứng hay còn gọi là phần thành thục của sợi nấm. Thành tế bào ở phần này ngoài các sợi ngang còn được tăng trưởng bởi các sợi dọc. Bắt đầu từ phần này trở xuống là chấm dứt sự tăng trưởng của sợi nấm. Giữa hai phần nói trên là miền yếu và dễ gãy. Ở phần tăng trưởng sợi nấm chứa đầy chất nguyên sinh với nhiều nhân, nhiều cơ quan, nhiều enzym, nhiều axit nucleic. Đây là phần quyết định sự tăng trưởng và sự phân nhánh của sợi nấm. Sợ nấm không ngừng phân nhánh và vì vậy khi một bào tư nảy mầm trên một môi trường đặc biệt sẽ phát triển thành một hệ sợi nấm sau 3-5 ngày có thể tạo thành một đám nhìn thấy gọi là khuẩn lạc. Phần lớn sợi nấm có dạng trong suốt, ở một số nấm sợi nấm mang sắc tố tạo nên màu tối hay màu sặc sỡ. Sắc tố của một số nấm còn tiết ra ngoài môi trường và làm đổi màu khu vực có nấm phất triển. 1.2.Cấu tạo của nấm mốc Nấm mốc được cấu thành bởi hai bộ phận: sợi nấm (khuẩn ty) và bào tử 1.2.1.Khuẩn ty Là sợi nấm mọc ra từ bào tử, phân nhánh sinh truưởng tạo ra một mạng sợi nấm chằng chịt gọi là khuẩn ty thể. Kích thước chiều ngang 3-10µ và chúng có các hình thái khác nhau tùy theo loại mốc, điển hình là: hình lò xo hay hình xoắn ốc, hình cái vợt một đầu to và cong, hình đốt quắn chặt vào nhau thành khối chặt, hình sùng hươu, hình răng lược hay hình lá dứa. Căn cứ vào vị trí chức năng của khuẩn ty có thể phân ba loại: *Khuẩn ty cơ chất (khuẩn ty dinh dưỡng): làm nhiệm vụ hấp thu chất dinh dưỡng. Tồn tại ở hai dạng là: - Thể đệm (stroma): giống như một cái đệm ghế, cấu tạo bởi nhiều khuẩn ty bện chặt nhau. - Hạch nấm (Sklerotium): có hình thoi tròn không đều bên trong là tổ chức sợi xốp. *Khuẩn ty khí sinh: Sợi nấm mọc lộ trên mặt môi trường từ bên trong hoặc bên trên thể đệm hay hạch nấm. *Khuẩn ty sinh sản: sợi khuẩn ty của nấm sợi có thể là khuẩn ty đa bào (có vách ngăn) hay khuẩn ty cộng bào (không vách ngăn hoặc vách ngăn không hoàn toàn) 1.2.2.Bào tử Là tế bào sinh sản được hình thành bằng phương thức sinh sản vô tính hay hữu tính. Kết quả của sự sinh sản hữu tính hay vô tính sẽ sinh ra các loại bào tử khác nhau. Mỗi loại nấm mốc có thể cho ra một hay vài loại bào tử. 1.2.2.1.Bào tử vô tính a.Bào tử đốt (actrospore): các khuẩn ty sinh sản có sự ngắt đốt, mỗi một đốt được coi như một bào tử, rơi vào môi trường sẽ phát triển thành một khuẩn ty mới. b.Bào tử màng dày (chlamydospore): trên các đoạn của khuẩn ty sinh sản xuất hiện các phần lồi hình tròn hay hơi tròn có màng dầy bao bọc. c.Bào tử nang (sporangiospore): trên các đoạn của khuẩn ty sinh sản phình to dần hình thành một cái bọc hay gọi là nang, trong bộc chứa nhiểu bào tử. d.Bào tử đính (Conidium): nhiều loại nấm có hình thức sinh sản này, các bào tử được hình thành tuần tự, liên tiếp từ khuẩn ty sinh sản. Phần lớn bào tử đính là nội sinh-được sinh ra từ bên trong. 1.2.2.2.Bào tử hữu tính Được hình thành do sự sinh sản hữu tính (bao gồm hiện tượng chất giao, nhân giao và phân bào giảm nhiễm). Các loại bào tử: Xuất hiện noãn khí Hùng khí được sinh ra tiếp xúc với noãn khí Ống xuyên chứa một nhân Nguyên sinh chất thụ tinh cho noãn cầu Noãn bào tử Khuẩn ty mới Bào tử noãn: b.Bào tử tiếp hợp: khi hai khuẩn ty khác giống gần nhau sẽ xuất hiện hai mầu lồi được gọi là nguyên phôi nang, hai mấu lồi có sự tiếp xúc và có sự xuất hiện vách ngăn tách hai phần đầu của hai mấu lồi thành hai tế bào đa nhân-hai tiểu giao tử tiếp hợp tạo thành một hợp tử có màng dày bao bọc được gọi là bào tử tiếp hợp. Sau một thời gian sồng tiềm tàng, bào tử tiếp hợp sẽ nảy mầm phát triển thành một nang trong chứa nhiều bào tử. c.Bào tử túi: Trên khuẩn ty đơn bội sinh sinh ra cơ quan sinh sản là túi giao tử đực hình ống-hùng khí và túi giao tử cái hình thành ở một đầu của khuẩn ty, phía trên sinh túi có một ống dài gọi là sợi thụ tinh. Khi hùng khí tiếp xúc với sợi thụ tinh thì khối nguyên sinh chất chứa nhiều nhân của hung khí sẽ qua sợi thụ tinh và nguyên sinh chất sẽ kết hợp lại với nhau. Trên thể sinh túi sẽ sinh ra nhiều sợi sinh túi, các nhân kép sẽ chuyển vào các sợi sinh túi từng phần sẽ phân chia nhiều lần và hình thành vách ngăn làm cho sợi sinh túi bị phân chia thành nhiều tế bào chứa nhân kép. Nhân kép phân chia tạo ra 4 nhân, sau đó tế bào phân chia thành 3 tế bào tế bào giữa chứa hai nhân,tế bào gốc và ngọn chứa 4 nhân. Tế bào giữa hình thành túi bào tử, tế bào ngọn và tế bào gốc tiếp hợp thành một tế bào hai nhân, sau đó phát triển thành túi mới. bào tử túi sẽ dài ra hai nhân sẽ hợp thành nhân lưỡng bội, sau đó phân chia liên tiếp hai lần để tạo thành 8 nhân đơn bội. các nhân kết hợp với một phần nguyên sinh chất và có màng bọc tạo thành bào tử túi. Tùy theo loại nấm mà số lượng, hình dạng, kích thước màu sắc bào tử túi sẽ khác nhau, khi bào tử túi thoát ra ngoài thì nảy mầm d.Bào tử đảm: khi hai khuẩn ty đơn bội khác tính tiếp cận với nhau thì trên khuẩn ty sẽ xuất hiện một ống nổi với khuẩn ty kia, nhân và nguyên sinh chất qua ống nối cũng sẽ được chuyển qua khuẩn ty ấy đề tạo khuẩn ty thứ cấp có chứa hai nhân. Khi tế bào ở đầu khuẩn ty này chuẩn bị phân cắt thì đoạn giữa hai nhân xuất hiện một ống nhỏ mọc hướng vế chồi gốc của tế bào, một nhân sẽ chui vào trong ống và từng nhân phân chia tạo thành 4 nhân con, sau đó xuất hiện hai vách ngăn tạo thành 3 tế bào: một tế bào nhân ở đỉnh, một tế bào nhân ở gốc và một tế bào nhân bên cạnh. Tế bào hai nhân sẻ phát triển thành đảm và hai tế bào kia sẽ kết hợp tạo thành tế bào khác. Trong đảm hai nhân sẽ kết hợp lại với nhau, sau đó phân chia liên tiếp hai lần tạo thành 4 tế bào con. Đảm phình to, bên trê xuất hiện 4 cuốn nhỏ, sau đó mỗi nhân sẽ chui vào trong tế bào thể bình và phát triển thành bảo tử đảm. đảm có thể sinh ra trực tiếp trên khuẩn ty hoặc những cơ qua đặc biệt gọi là quả đảm. 2.Các dạng biến hóa của hệ sợi nấm Hệ sợi nấm có thể biến hóa để thích nghi với các điều kiện sống khác nhau thành các dạng đặc biệt sau đây: Rễ giả (rhizoid): Trông gần giống như một chùm rễ phân nhánh, có tác dụng giúp nấm bám chặt vào cơ chất và hấp thụ chất dinh dưỡng từ cơ chất. Sợi hút (haustoria): Gặp ở nấm ký sinh bắt buộc. Chúng được mọc ra từ khuẩn ty và phân nhánh rồi đâm sâu vào tế bào vật chủ. Chúng sử dụng các sợi hút này để hút các chất dinh dưỡng từ tế bào vật chủ. Sợi áp (appressoria): Gặp ở nấm ký sinh ở thực vật. Phần sợ nấm tiếp xúc với vật chủ sẽ phồng to ra. Sợi áp không phát triển thành các nhánh đâm sâu vào tế bòa còn sống của vật chủ. Sợi bò hay thân bò (stolon): Đó là đoạn sợi nấm khí sinh không phân nhánh, phát sinh từ các sợi nấm cơ chất, có hình thẳng hoặc hình cung. Đầu mút của các sợi bò chạm vào cơ chất phát triển thành các rễ giả đẻ bám vào cơ chất. Vòng nấm hay mạng nấm: Đó là những biến đổi ở các loài nấm có khả năng bẫy các động vật nhỏ trong đất. Vòng nấm có dạng các sợi thòng lọng có khuyên tròn dọc sợi nấm. Mạng nấm hay còn gọi là lưới dính là một mạng sợi dính với nhau như tấm lưới nhỏ. 3.Sinh sản ở nấm mốc 3.1.Sinh sản sinh dưỡng *Phát triển bằng khuẩn ty *Sinh sản bằng hạch nấm 3.2.Sinh sản vô tính: Đây là kiểu sinh sản chủ yếu bằng bào tử, các bòa tử có thể tạo thành từ những phương pháp sau: - Bào tử được tạo thành do sự cắt đoạn của các sợi nấm. - Bào tử có thê được tạo thành từ tế bào sinh bào tử bằng cách nảy chồi và đồng thời bản thân các bào tử được sinh ra ở kiểu này chúng có khra năng nảy chồi để tạo thành bào tử tiếp theo. - Bào tử có thể được tạo thành bằng cách ngăn vách với tế bào ngay khi bào tử mới hình thành và hoàn toàn không có khả năng sinh ra được những bào tử tiếp theo. 3.3.Sinh sản hữu tính: Ngoài ra nấm mốc còn có thể sinh sản theo kiểu hữu tính (có tính đực, cái). Hai đầu sợi nấm tiếp hợp với nhau rồi mọc lên một cá thể mới. Lên men nấm mốc Các sản phẩm lên men bởi nấm mốc là một trong những khía cạnh của các thực phẩm lên men. Cho đến nay, chúng ta cũng chỉ mới đề cập đến vấn đề này một cách sơ sài. Thật không thích hợp khi không quan tâm đến phương thức này, vì đó là một sự tổn hại to lớn đến các khía cạnh trong cuộc sống, khi mà nấm mốc giữ một vai trò quan trọng trong một số thực phẩm lên men ở phương đông. 1. Tempeh(tương nén): Tempeh là một thực phẩm lên men truyền thống ở Indonesia. Tuy vậy nó lại rất được ưa thích tại Hà Lan, Hoa Kỳ và chiếm một thị trường tiêu thụ đáng kể tại Mỹ, Châu Âu và Úc. Phổ biến nhất là loại Tempeh được sản xuất từ đậu nành, nó có tên là Tempeh kedele. Tempeh kedele- đậu nành lên men, ở dạng đặc, màu trắng nguyên hạt, có mùi đặc trưng. *Quy trình sản xuất Tempeh: Tempeh được sản xuất khá dễ dàng và đơn giản. Ta có thể tóm lược quá trình sản xuất Tempeh từ đậu nành qua sơ đồ như sau: Đậu nành  Ngâm  nước ấm qua đêm (8-22 giờ)  Tách  vỏ Luộc đậu(45-60 phút) Để ráo, làm nguội Lên men giống VSV (Rhizopus oligosporus) Đóng gói kín và ủ ở 30-350C Trong 24 -36 giờ Bánh Tempeh Kedele Bước đầu tiên quá trình sản xuất Tempeh là người ta sẽ bắt đầu ngâm toàn bộ các hạt đậu sạch đã được chọn trong nước từ 8 đến 22 giờ (thường để qua đêm) để cho hạt đậu được mềm và nở ra. Trong giai đoạn này có sự lên men vi khuẩn Lactobacillus plantarum, Lactobacillus fermentum– lên men lactic xảy ra nên làm cho pH bị giảm xuống mức 4.5-5.3, điều kiện này các vi khuẩn gây bệnh và mầm bệnh không phát triển được. Đậu sau khi được ngâm sẽ được tách vỏ (màng bên ngoài) và luộc phần hạt còn lại trong vòng khoảng 45-60 phút để loại bỏ lectins và chất gây ức chế trypsin cũng như phóng thích ra các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của nấm. Sau khi nấu, đậu được để ráo và có thể được ép nhẹ để loại bỏ lượng nước thừa. Sau đó chúng được cho vào các khay bằng tre để làm nguội. Lúc này người ta sẽ thêm vào một lượng men giống Tempeh làm chất mồi cho quá trình nuôi cấy bằng cách trộn chúng thật đều với đậu đã được nấu chín trước khi cho vào khay tre hoặc bằng cách phun tưới các bào tử lên men chuẩn bị cho việc tạo môi trường nuôi cấy men giống vào hạt đậu. Lên men là một thuộc tính bất biến của nấm mốc, nấm men và vi khuẩn, nhưng loại nấm mốc quan trọng thường dùng đến trong quá trình sản xuất này là loài nấm Rhizopus oligosporus, mặc dù những loài như Mucor và Rhizopus cũng thường được cho vào để góp phần làm tăng hương vị và chất dinh dưỡng cho sản phẩm. Trong hai ngày ủ tại nhiệt độ thường (30-350C), các sợi nấm sẽ phát triển ra khắp hạt và đan kết các hạt lại thành một khối rắn chắc và có thể cầm khối đậu lên được. Trong suốt quá trình lên men độ pH tăng trong khoảng 7, enzyme phân giải protein của nấm (proteases) làm tăng lượng axit amin tự do chứa trong sản phẩm và các enzyme phân giải lipid thủy phân hơn 1/3 các chất béo trung hòa thành các axit béo tự do. Khác với nhiều loại thực phẩm lên men khác, việc sản xuất Tempeh không có ý nghĩa trong việc kéo dài hạn sử dụng cho nguyên liệu của sản phẩm này mà được dùng cho các trường hợp cần làm ổn định nguyên liệu. Tempeh có chứa các chất chống oxi hóa do đó giúp làm chậm sự phát triển của sự tạo mùi ôi, nhưng trong nhiệt độ thường cũng chỉ giữ được từ 1 đến 2 ngày vì sự hình thành bào tử của nấm mốc làm đổi màu sản phẩm và sự phân giải protein sẽ tạo ra nhiều mùi ammoniac. Việc sản xuất Tempeh cũng phải cải thiện theo nhu cầu thị hiếu nếu không thực phẩm sẽ không hấp dẫn. Các loại Tempeh tươi có mùi dễ chịu và hương vị hấp dẫn. Chúng có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau, thường là sau khi chiên. Ngoài việc cải thiện tính hấp dẫn của sản phẩm, sự lên men cũng làm cải thiện chất lượng dinh dưỡng của đậu nành. Một phần là do sự làm giảm hoặc loại bỏ những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của các chất dinh dưỡng tại các giai đoạn khác nhau trong quá trình chế biến. Việc phá hủy chất ức chế trysin và lectins trong quá trình nấu đậu như đã nói ở trên cũng như nồng độ của axit phytic, chúng làm ảnh hưởng đến các chất dinh dưỡng và làm mất đi khoảng 1/3 lượng chất dinh dưỡng trong quá trình chế biến.. Khả năng thường thấy gây đầy hơi của đậu cũng được xem là một tính chất kháng dinh dưỡng, các chất tạo sự đầy hơi thường là các oligosaccharide như là stachyose và raffinose. Chúng cũng được gạn bỏ 1 phần trong quá trình ngâm hạt. Mặc dù có phân giải protein xảy ra trong quá trình lên men, nhưng các nghiên cứu vẫn chưa thể khẳng định được rằng protein trong tempeh dễ tiêu hóa hơn. Ngoại trừ sự giảm của thiamine, các vitamin khác đều tăng lên với nhiều mức độ khác nhau trong quá trình lên men. Vitamin B12 là nhân tố chống thiếu máu ác tính quan trọng Chúng được tổng hợp trong quá trình lên men nhờ vi khuẩn Klebsiella pneumoniae. Thường các nguồn cung cấp vitamin B12 trong chế độ ăn của chúng ta là các sản phẩm từ động vật. Do đó đối với những người ăn chay thì Tempeh là một nguồn cung cấp vitamin B12 khá quan trọng. Tempeh có thể được sản xuất từ nhiều nguồn nguyên liệu thực vật khác nhau như là: các loại đậu, ngũ cốc và các sản phẩm nông nghiệp khác. Loại Tempeh có thương hiệu khá nổi tiếng là loại tempeh bongkrek, có nguồn gốc tại miền trung Java. Nó dùng nguyên liệu là bánh dầu dừa còn lại sau khi chiết xuất đi phần dầu dừa. Tempeh bongkrek đã từng liên quan đến việc ngộ độc thực phẩm hàng loạt nguy hiểm do vi khuẩn Burkholderia cocovenenans phát triển trong sản phẩm và tạo nên các độc tố là axit bongkrekic và toxoflavi.Từ năm 1951, ít nhất 1000 người đã chết do nhiễm độc này. Và năm 1988 chính phủ Indonesia đã nghiêm cấm việc sản xuất Tempeh bongkrek. Có hai yếu tố được lí giải cho vấn đề nghiêm trọng này. Đó là việc giảm hoặc thiếu sót trong quá trình ngâm bánh dầu ban đầu sẽ có thể làm hỏng quá trình lên men lactic đủ để giảm pH xuống dưới mức 6, tại mức độ này thì vi khuẩn không thể phát triển. Ngoài ra, các chất tạo ra nấm có thể quá nhỏ vì nó đã được chứng minh rằng loài B. cocovenenans không thể phát triển nếu Rhizopusoligosporus nhiều hơn mười lần (ước tính theo số lượng đĩa). Ontjom là một loại sản phẩm cùng loại với Tempeh được sản xuất ở Indonesia từ bánh dầu đậu phộng và thường có bề ngoài như một lát thịt cắt mỏng và có mùi trái cây (fruity/mincemeat character). Nó có thể được sản xuất bằng các men giống Tempeh. Nhưng loài Neurospora intermedia thường được sử dụng hơn. Loại mốc này hoạt động mạnh trong việc phân giải galactose và góp phần làm giảm lượng oligosaccharides gây đầy hơi. Ngoài những loại Tempeh đã kể trên ta còn có nhiều loại Tempeh và các sản phẩm cùng loại của nó như: Tempe  benguk, Dage, Oncom  hitam ( Indonesia), Tempe  Kecipir, Tempe  Lamtoro, Tempe  Koro Pedang, Oncom  Merah Bogor, Tempe Gembus… Tùy theo mỗi nơi chế biến mà thành phần và hương vị của chúng cũng rất khác nhau. *Một số vi sinh vật trong lên men Tempeh: Giống như các loại thực phẩm khác, Tempeh cũng là một môi trường rất giàu chất dinh dưỡng để nhiều loại vi sinh vật phát triển. Chúng bao gồm các nhóm vi sinh vật như sau: nấm mốc, nấm men, vi khuẩn axit lactic và một số vi khuẩn gam âm. Trong đó loài nấm mốc Rhizopus oligosporus là loài được sử dụng chính cho quá trình sản xuất. ngoài ra còn cá các loài nấm khác như là R. oryzae và Mucor spp cũng được sử dụng để cải thiện hương vị, cấu trúc và giá trị dinh dưỡng của sản phẩm. Vi khuẩn axit lactic thì góp phần vào việc đảm bảo độ an toàn của sản phẩm. ngoài ra còn có các loài như Citrobacter freundii or Klebsiella pneumoniae có khả năng tổng hợp vitamin B12 cho sản phẩm. Nấm men cũng thường được phát hiện trong Tempeh nhưng chúng không có ảnh hưởng nhiều đến sản phẩm. Nấm mốc sản xuất Tempeh: Rhizopus oligosporus Nhiều loài nấm mốc được phát hiện trong tempeh nhưng chi Rhizopus là chiếm đa số nhất. Rhizopus bao gồm 3 nhóm loài là: R. oryzae , R. stolonifer and R. microspores. Trong đó loài Rhizopus oligosporus được sử dụng nhiều nhất trong quá trình lên men. Do chúng có các đặc tính như sinh trưởng mạnh ở n
Luận văn liên quan