Hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 5,6%/năm. Từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam trở thành nước thứ 2 Thế giới về xuất khẩu lương thực, các sản phẩm nông, lâm, thuỷ hải sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Có nhiều yếu tố góp vào thành công đó, trong đó tín dụng Ngân hàng có một đóng góp hết sức to . Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn qua kênh tín dụng Ngân hàng tăng 30 - 40% / năm. Một trong những thay đổi cơ bản trong tín dụng Ngân hàng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn là chuyển hướng cho vay hộ nông dân. Vốn tín dụng Ngân hàng đầu tư cho kinh tế hộ chiếm 60 - 70 % tổng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn. Cơ chế cho vay đối tượng này ngày càng được hoàn thiện. Chính sách của Đảng, Chính Phủ ngày càng cởi mở và sát với thực tiễn, được NHNN cụ thể bằng các cơ chế và NHNo & PTNT hướng dẫn trong các quy định cho vay. Có thể nói, việc mở rộng cho vay kinh tế hộ đã giúp cho hàng triệu hộ nông dân được tiếp cận với tín dụng Ngân hàng, có nhiều cơ hội để xoá đói, giảm nghèo và làm giầu, làm thay đổi cuộc sống người dân và bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.
Thanh Trì là một huyện phía nam của Hà Nội, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, Công nghiệp, thương mại dịch vụ ….chậm phát triển, do đó việc đầu tư vốn Ngân hàng cho hộ nông dân có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển Kinh tế - Xã hội của huyện.
Tuy nhiên, trong quá trình Ngân hàng vận động, phát triển của kinh tế thị trường, quan hệ tín dụng nông dân ngày càng bộc lộ nhiều vướng mắc. Việc nâng cao chất lượng cho vay không phải lúc nào cũng thuận lợi, dễ dàng. Các thủ tục, quy trình cho vay luôn đòi hỏi phải cải tiến, vừa đảm bảo tiện ích cho dân nhưng cũng phải đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng.
Với đề tài "Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì - Hà Nội" nhằm góp phần giải đáp câu hỏi đó - câu hỏi mà các cấp, các ngành, nhiều hộ gia đình và cán bộ Ngân hàng quan tâm.
67 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 11381 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 5,6%/năm. Từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam trở thành nước thứ 2 Thế giới về xuất khẩu lương thực, các sản phẩm nông, lâm, thuỷ hải sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Có nhiều yếu tố góp vào thành công đó, trong đó tín dụng Ngân hàng có một đóng góp hết sức to . Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn qua kênh tín dụng Ngân hàng tăng 30 - 40% / năm. Một trong những thay đổi cơ bản trong tín dụng Ngân hàng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn là chuyển hướng cho vay hộ nông dân. Vốn tín dụng Ngân hàng đầu tư cho kinh tế hộ chiếm 60 - 70 % tổng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn. Cơ chế cho vay đối tượng này ngày càng được hoàn thiện. Chính sách của Đảng, Chính Phủ ngày càng cởi mở và sát với thực tiễn, được NHNN cụ thể bằng các cơ chế và NHNo & PTNT hướng dẫn trong các quy định cho vay. Có thể nói, việc mở rộng cho vay kinh tế hộ đã giúp cho hàng triệu hộ nông dân được tiếp cận với tín dụng Ngân hàng, có nhiều cơ hội để xoá đói, giảm nghèo và làm giầu, làm thay đổi cuộc sống người dân và bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.
Thanh Trì là một huyện phía nam của Hà Nội, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, Công nghiệp, thương mại dịch vụ ….chậm phát triển, do đó việc đầu tư vốn Ngân hàng cho hộ nông dân có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển Kinh tế - Xã hội của huyện.
Tuy nhiên, trong quá trình Ngân hàng vận động, phát triển của kinh tế thị trường, quan hệ tín dụng nông dân ngày càng bộc lộ nhiều vướng mắc. Việc nâng cao chất lượng cho vay không phải lúc nào cũng thuận lợi, dễ dàng. Các thủ tục, quy trình cho vay luôn đòi hỏi phải cải tiến, vừa đảm bảo tiện ích cho dân nhưng cũng phải đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng.
Với đề tài "Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Trì - Hà Nội" nhằm góp phần giải đáp câu hỏi đó - câu hỏi mà các cấp, các ngành, nhiều hộ gia đình và cán bộ Ngân hàng quan tâm.
2. Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề thực tập
Phân tích những vấn đề có tính lý luận cơ bản về kinh tế hộ đối với nông nghiệp, nông thôn
Làm rõ vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ.
Phân tích thực trạng cho vay hộ sản xuất của NHNo Thanh Trì trên địa bàn huyện.Trên cơ sở thực tiễn và lý luận, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất của NHNo Thanh Trì cũng như NHNo & PTNT Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề tập trung nghiên cứu các khoản cho vay của NHNo & PTNT Thanh Trì.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề: tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì trong thời gian 2003-2004 từ đó đề xuất một số định hướng, giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất của NHNo Thanh Trì.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đi từ nhận thức từ các quan điểm, lý luận, đặc điểm chính của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường, để phân tích đánh giá, tìm các biện pháp nâng cao chất lượng trong cho vay hộ sản xuất ở NHNo Thanh Trì.Chuyên đề sử dụng kết hợp một số phương pháp: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư duy đổi mới, phân tích diễn giải, kết hợp với phương pháp tổng hợp thống kê. Ngoài ra, chuyên đề còn sử dụng các bảng biểu, sơ đồ để minh hoạ và lựa chọn phương án tối ưu.
5. Những đóng góp của chuyên đề
Thứ nhất: Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng cho vay hộ sản xuất và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai: Phân tích thực trạng chất lượng cho vay hộ sản xuất và tình hình quản lý chất lượng cho vay hộ sản xuất trong thời gian qua, xác định những tồn tại và phát hiện những vấn đề cần bổ sung về chất lượng cho vay hộ sản xuất ở NHNo Thanh Trì. Từ đó tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng cho vay hộ sản xuất ở NHNo Thanh Trì.
Thứ ba: Đưa ra một số kiến nghị đối với các cấp, các ngành có liên quan nhằm đổi mới cơ chế quản lý tín dụng để nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất.
6. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương.
Chương 1: Nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay hộ sản xuất ở NHNo & PTNT Thanh Trì - Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất ở NHNo & PTNT Thanh Trì - Hà Nội.
CHƯƠNG 1
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Tín dụng hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm chung về hộ sản xuất
Thời kỳ trước năm 1988, các hệ thống Ngân hàng Việt Nam chỉ tập trung cho vay thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, tỷ trọng cho vay hai thành phần kinh tế này của NHNo Việt Nam chiếm từ 91,55% - 96,6% tổng dư nợ. Chỉ từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, việc ban hành bộ luật đất đai năm 1993, cùng với sự đổi mới về cơ cấu tổ chức, thay đổi đối tượng khách hàng của hệ thống Ngân hàng, tỷ trọng cho vay hộ sản xuất trong tổng dư nợ tăng dần lên. Đặc biệt với NHNo & PTNT Việt Nam tỷ trọng cho vay hộ sản xuất đã ngày càng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng dư nợ: từ 41% năm 1990 tăng lên 69,6% năm 1996 và 69,7% năm 2000. Tuy nhiên khái niệm về hộ sản xuất vẫn chưa cụ thể, hầu hết đều mặc nhiên thừa nhận "hộ sản xuất" là "hộ gia đình" là "kinh tế hộ". Ta có thể hiểu khái niệm hộ sản xuất theo nghĩa như sau:
Hộ sản xuất ở Việt Nam hiện nay thường là những hộ gia đình, mà các thành viên có tài sản chung, đồng sở hữu tài sản, cùng chịu trách nhiệm, cùng sản xuất kinh doanh trên cơ sở tự nguyện, tự giác và chủ yếu sử dụng chính sức lao động của gia đình mình.
1.1.2. Đặc điểm chính của hộ sản xuất
Thứ nhất: Trình độ sản xuất còn thấp trên nhiều mặt: Trình độ hiểu biết, kỹ năng sản xuất, trình độ tổ chức quản lý kinh doanh, hoạch toán…. Việc phân công lao động dựa trên cơ sở tình cảm, bổn phận, phong tục tập quán địa phương, dân tộc, dòng họ và thường gắn liền với ngành nghề truyền thống của quê hương.
Thứ hai: Địa điểm sản xuất - kinh doanh thường phân tán trên địa bàn rộng, quy mô sản xuất thường nhỏ cho nên không có được sự gắn kết. Đó có thể là mặt trái của chính sách khoán trong nông nghiệp dẫn đến hiện tượng ruộng đất bị phân chia xé lẻ, mỗi hộ có vài mảnh ở cách xa nhau. Điều đó rất khó khăn cho việc hình thành các khu vực chuyên canh sản xuất các nông sản thực phẩm có tính hàng hoá cao, cũng như nó cản trở việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới….
Thứ ba: Hộ sản xuất Việt Nam hiện nay chủ yếu là hộ thuần nông. Vì vậy, nó có những mặt khó khăn, hạn chế của kinh tế nông nghiệp: Sản xuất không ổn định, vốn luân chuyển chậm, khả năng xẩy ra rủi ro cao, hiệu quả thấp, hoạt động mang nặng tính thời vụ, phụ thuộc vào chu kỳ sinh trưởng của từng loại cây, con theo từng điều kiện tự nhiên của từng vùng lãnh thổ.
Thứ tư: Hoạt động sản xuất - kinh doanh của hộ sản xuất chủ yếu là kinh doanh đa dạng, vừa trồng trọt, vừa chăn nuôi, chế biến và làm các dịch vụ khác. Đây vừa là ưu điểm lại vừa là nhược điểm của kinh tế hộ sản xuất. Nhược điểm là khó khăn trong việc sản xuất chuyên canh, tăng quy mô sản xuất….Ưu điểm là linh hoạt, dễ thích ứng với yêu cầu của thị trường, khai thác tiềm năng tài nguyên, sức lao động ở nông thôn , đa dạng hoá các nguồn trả nợ, phân tán bớt rủi ro, giảm bớt tính thời vụ của các khoản vay.
Thứ năm: Hộ sản xuất thường nghèo, khả năng tài chính yếu, tài sản thế chấp không có giá trị hoặc thiếu giấy tờ pháp lý, tính thanh khoản lại không cao, tài sản thường không làm giấy tờ sở hữu mà chuyển dịch theo phong tục, tập quán tại địa phương, có rất ít ngành nghề có đăng ký kinh doanh….Việc đáp ứng các điều kiện vay vốn như thông lệ trong tín dụng hộ sản xuất là rất khó.
Thứ sáu: Hộ sản xuất thường là một hộ gia đình - một thành viên của xã hội, chỗ ở thường ít thay đổi, vì vậy hộ sản xuất mang trên mình nhiều chức năng, vai trò mà các thành phần khác không có.
1.1.3. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
Từ những đặc điểm của hộ sản xuất đã nêu trên, chúng ta nhận thấy: hộ sản xuất thường là các hộ gia đình ở nông thôn. ở Việt Nam hiện nay, dân số trong nông nghiệp , nông thôn chiếm gần 80% dân số toàn quốc, vì vậy kinh tế hộ sản xuất phản ánh bộ mặt của nông nghiệp, nông thôn, thành phần kinh tế đông đảo nhất của nền kinh tế nước nhà. Hộ sản xuất có khả năng khai thác sử dụng mọi tiềm năng về đất đai, lao động để phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước. Phát triển tốt kinh tế hộ sản xuất còn là điều kiện cơ bản để đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm, tạo thêm công ăn việc làm, góp phần giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia.
Thị trường nông nghiệp, nông thôn là thị trường chiến lược quan trọng của NHNo & PTNT Việt Nam kể từ ngày thành lập đến nay. Thị trường nông thôn là thị trường chủ yếu và truyền thống, địa bàn này ít bị ảnh hưởng của cạnh tranh, là thị trường mà NHNo & PTNT Việt Nam đã giữ vũng, ổn định và ngày càng cố gắng nâng cao chất lượng. Như vậy, đây là một thị trường chủ yếu hiện nay và đầy tiềm năng trong tương lai của NHNo & PTNT Việt Nam.
1.1.4. Phân loại hộ sản xuất
Xuất phát từ các đặc điểm riêng của hộ sản xuất ở Việt Nam thường là hộ gia đình, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, đa phần là kinh doanh đa dạng với nhiều nguồn thu nhỏ lẻ khác nhau….Đó là khó khăn cho việc phân loại hộ sản xuất, bên cạnh đó do thiếu các điều kiện vay vốn nên các hộ thường chỉ vay được một loại vay nào đó, vì vậy có thể phân loại hộ sản xuất thành các loại sau:
- Hộ sản xuất nông, lâm, thuỷ sản:
+ Hộ trồng trọt.
+ Hộ chăn nuôi.
+ Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ, nước mặn.
+ Đánh bắt thuỷ hải sản.
- Hộ sản xuất diêm nghiệp: Ngoài các tổ chức quốc doanh còn tồn tại, thì có các hộ gia đình ở vùng ven biển cũng được giao diện tích đất để làm muối.
- Hộ lâm nghiệp: Các hộ gia đình được giao đất trồng rừng, khai thác, chế biến sản phẩm từ rừng.
- Hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Hộ làm dịch vụ và thương mại dịch vụ.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay hộ sản xuất
1.2.1. Khái niệm về chất lượng cho vay hộ sản xuất
Tín dụng hộ sản xuất của NHTM là quan hệ tín dụng giữa các NHTM đối với hộ sản xuất.
Như vậy, khái niệm về tín dụng hộ sản xuất của NHTM cũng hoàn toàn nhất quán với khái niệm của tín dụng NHTM, chỉ khác ở đối tượng quan hệ được giới hạn chỉ có thành phần hộ sản xuất. Các nguyên tắc cơ bản của tín dụng NHTM vẫn được thực hiện; Đó là quan hệ vay trả có mục đích, có lãi suất, có thời hạn hoàn trả theo sự tự nguyện thoả thuận của các bên. Quan hệ tín dụng của NHTM với hộ sản xuất không phải là quan hệ xin cho, quan hệ trợ cấp, mà nó phải đáp ứng lợi ích kinh tế của cả hai bên. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc hiểu đúng và thực hiện đúng khái niệm về tín dụng hộ sản xuất của các hộ vay vốn và ngay cả NHTM cũng còn có chỗ chưa chuẩn. Điều đó đưa lại không ít khó khăn cho mở rộng quan hệ tín dụng hộ sản xuất và là một nhân tố làm nợ quá hạn hộ sản xuất tăng lên. Do vậy, ở đây ta có thể hiểu: Chất lượng tín dụng hộ sản xuất thể hiện việc cho vay được thu hồi cả gốc và lãi đúng thời hạn.
1.2.2 Hiệu quả hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất
Khái niệm: hiệu quả hoạt động tín dụng là một thuật ngữ phản ánh mức độ an toàn và khả năng khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại. Vì trên thực tế khi tiến hành cấp một khoản tín dụng cho khách hàng vấn đề ngân hàng quan tâm hàng đầu là khả năng hoàn trả của khách hàng và đảm bảo kinh doanh có lãi. Hoạt động tín dụng theo quan điểm của ngân hàng được xem xét dưới góc độ là mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng của ngân hàng mang lại.
Hoạt động tín dụng có hiệu quả có nghĩa là việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả sản phẩm cung ứng cho an toàn xã hội có chất lượng cao giá thành hạ đáp ứng nhu cầu trong nước và có sức cành cao trên thị trường quốc tế.
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay hộ sản xuất
- Chỉ tiêu nợ quá hạn.
+ Nợ quá hạn: là khoản nợ, lãi vay đã quá hạn trả theo thoả thuận mà khách hàng không trả được.
Khái niệm nợ quá hạn được chấp nhận rộng rãi trên thế giới là: "Một khoản nợ có gốc hoặc lãi chậm thanh toán vượt quá số ngày tối thiểu được xác định theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng và phản ánh các thông lệ trong nước về thanh toán đối với loại hình nợ đó".
Theo quy định mới nhất hiện nay của Thống đốc NHNN, khi có phát sinh nợ quá hạn ở một kỳ hạn nợ thì toàn bộ số nợ còn lại của khoản vay đó
đều phải chuyển thành nợ quá hạn.
Phần lớn các khoản vay bị chuyển nợ quá hạn là những khoản nợ có vấn đề, phản ánh chất lượng của công tác tín dụng bị giảm sút, phản ánh khả năng không thu hồi được đầy đủ đúng hạn vốn, lãi vốn đã cho vay ra, vì vậy, đây là chỉ tiêu quan trọng nhất, rõ thấy nhất để đánh giá khả năng rủi ro trong tín dụng nói chung cũng như trong tín dụng hộ sản xuất nói riêng.
Trong phân tích đánh giá người ta thường sử dụng chỉ tiêu tương đối là tỉ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ:
Số dư nợ quá hạn hộ sản xuất
Tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất = x 100%
Tổng số dư nợ hộ sản xuất
+ Nợ khó đòi: Đây là một bộ phần của nợ quá hạn, là những khoản nợ quá hạn không còn khả năng đòi được mà chưa xử lý được…. Ví dụ: Như khi khách hàng vay vốn không còn khả năng phục hồi sản xuất, không còn tài sản, khách hàng vay vốn mất tích hay bỏ trốn đi nơi khác mà không tìm được…
+ Nợ khoanh: Là những khoản nợ của khách hàng không trả được do nguyên nhân bất khả kháng, được Chính Phủ cho phép khoanh lại…để hỗ trợ cho các hộ sản xuất được phép vay thêm vốn của NHTM để phục hồi sản xuất - kinh doanh, để giúp cải thiện một phần tình hình tài chính của các NHTM do những khó khăn khách quan, đây là ưu việt của nhà nước XHCN, là chính sách kinh tế - xã hội của Chính Phủ. Đó cũng là những khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi của NHTM nhưng phải bỏ thêm phần chi phí hoàn chỉnh thủ tục và một khoảng thời gian thường khá dài không được tính lãi kể từ khi nợ được khoanh đến khi vốn được cấp bù.
Nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng nhất trong việc đánh giá khả năng mất vốn, trong việc đề ra biện pháp đúng để thu được nợ vay, đề ra biện pháp phòng ngừa, trong xây dựng chiến lược kinh doanh….Vì vậy, khi phân tích nợ quá hạn người ta dùng rất nhiều chỉ tiêu để phân loại nợ quá hạn:
+ Phân loại theo thời hạn vay: Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn…
+ Phân loại theo nguyên nhân khách quan, chủ quan, do Ngân hàng hay do khách hàng, do môi trường kinh doanh. Từ đó có biện pháp xử lý nợ quá hạn hợp lý, cũng như các biện pháp ngăn chặn , giảm bớt, xây dựng định hướng đầu tư.
+ Phân loại theo nợ có tài sản đảm bảo hay không có tài sản đảm bảo; Tài sản đảm bảo tiền vay là cơ sở thu hồi vốn vay khi xử lý nợ quá hạn. Như vậy, rõ ràng tài sản đảm bảo là biện pháp quan trọng làm giảm rủi ro và tăng chất lượng tín dụng.
+ Phân loại nợ quá hạn theo thành phần kinh tế, theo từng loại hộ sản xuất. Từ sự so sánh đánh giá để rút ra khả năng xẩy ra rủi ro loại hộ nào là cao nhất, nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa, nâng cao chất lượng cho vay trong tương lai.
+ Phân loại nợ quá hạn hộ sản xuất theo tiêu thức thời gian tính từ thời điểm chuyển nợ quá hạn: Nợ quá hạn đến 180 ngày, nợ quá hạn từ 180 đến 360 ngày, nợ quá hạn trên 360 ngày. Nói chung thời gian nợ quá hạn càng dài thì khả năng rủi ro càng cao, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tín dụng.
+ Để đánh giá mức độ tổn thất của tín dụng được chính xác và có biên pháp xử lý hợp lý, người ta còn phân chia các khoản nợ tồn đọng thành từng nhóm:
Nợ nhóm 1: Nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo.
Nợ nhóm 2: Nợ không có tài sản đảm bảo, không còn đối tượng thu.
Nợ nhóm 3: Nợ không có tài sản đảm bảo, người vay còn tồn tại, đang hoạt động.
- Những chỉ tiêu khác:
Khả năng mất mát trong hoạt động của Ngân hàng cũng có thể đo bằng các phương pháp khác như: Phương pháp xác xuất, phương pháp đo lường… bằng nhiều cách khác nhau như kiểm tra hồ sơ vay vốn, điều tra xác xuất, điều tra các trọng điểm… qua đó múc độ vi phạm quy trình vay vốn, những hồ sơ không đảm bảo tính an toàn, mức độ sử dụng sai mục đích vốn vay, sự sai lệch hồ sơ với thực tế, giá trị thực tế tài sản đảm bảo, tình hình biến động giá cả tài sản đảm bảo, tình hình trích quỹ dự phòng rủi ro, xử lý rủi ro…
Chỉ tiêu nợ quá hạn, giá trị tài sản đảm bảo là hai yếu tố cơ bản để đánh giá chính xác chất lượng tín dụng của các NHTM. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác chất lượng cần bổ sung các phương pháp khác như: cách phân loại nợ theo xếp loại khách hàng có khả năng trả nợ quá hạn hay không?. Theo tình hình xử lý tài sản đảm bảo ở từng thời kỳ, từng địa bàn vì "tài sản đảm bảo không phải lúc nào cũng hiệu quả trong việc giảm nhẹ rủi ro, làm tăng chất lượng tín dụng",
do yếu kém của hệ thống pháp luật và do những trở ngại khác mà không phải lúc nào cũng xiết nợ và bán được tài sản thế chấp; việc chuyển nợ quá hạn đã chính xác hay chưa cũng là vấn đề cần quan tâm một khi các Ngân hàng vì lợi ích trước mắt tìm cách không chuyển nợ quá hạn, đảo nợ, gia hạn nợ….Và còn phải xem xét cả khả năng rủi ro của các công cụ ngoài bảng cân đối kế toán.
1.2.4. Vai trò của tín dụng hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
1.2.4.1. Vai trò của tín dụng hộ sản xuất đối với bản thân khu vực kinh tế hộ
- Tín dụng hộ sản xuất góp phần hình thành thị trường tài chính tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn cơ bản cho sản xuất, chế biến, lưu thông hàng hoá của hộ sản xuất:
+ Thúc đẩy việc tích tụ tập trung các điều kiện sản xuất, trước hết là khuyến khích chuyển đổi lô, thửa giữa các hộ sản xuất, tạo điều kiện sản xuất tập trung, chuyên môn hoá và áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến.
+ Là cầu nối giữa hộ thừa và thiếu vốn, thúc đẩy hạch toán, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Hỗ trợ kịp thời vốn cho các hộ sản xuất, lưu thông hàng hoá trên địa bàn nông thôn.
- Tín dụng hộ sản xuất góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Chỉ có cơ cấu kinh tế phù hợp mới có khả năng nâng cao hiệu quả kinh tế một cách bền vững của các đơn vị kinh tế nói chung và các hộ sản xuất nói riêng.
+ Tín dụng hộ sản xuất có thể tham gia vào tất cả các khâu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. NHTM cho các hộ sản xuất vay vốn trang bị máy móc công cụ, đổi mới giống cây trồng vật nuôi để mở rộng sản xuất, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, cho vay để luân chuyển vật tư, tiêu thụ sản phẩm, từ đó tạo sự cân đối hợp lý trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn.
+ Tín dụng hộ sản xuất góp phần cải tạo cơ sở hạ tầng nông thôn, các cơ sơ chế biến, tiêu thụ sản phẩm, tạo tiền đề cho kinh tế hộ phát triển.
+ Tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí, chuyển giao công nghệ kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
- Tín dụng hộ sản xuất giúp các hộ sản xuất nâng cao trình độ sản xuất, tăng cường hạch toán kinh tế.
Các hộ sản xuất khi vay tiền Ngân hàng, buộc phải tính toán thu, chi và tìm cách bán được sản phẩm của mình để có tiền trả nợ Ngân hàng đúng hạn. Điều đó thúc đẩy việc hạch toán kinh tế, khai thác cao nhất các điều kiện sản xuất, tìm và chọn ra phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả nhất, với chi phí thấp nhất. Tín dụng Ngân hàng đã thúc đẩy các hộ sản xuất chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường.
- Tín dụng hộ sản xuất góp phần giảm tệ nạn cho vay nặng lãi, bán sản phẩm chưa đến thời điểm thu hoạch ở nông thôn. Nếu làm tốt công tác tín dụng hộ sản xuất thì nguồn vốn Ngân hàng sẽ kịp thời giúp các hộ sản xuất bổ sung các chi phí vượt ngoài khả năng tài chính của mình, có đủ thời gian để chọn thời điểm tiêu thụ sản phẩm có lợi hơn. Ngoài ra tín dụng hộ sản xuất sẽ góp phần tạo thêm công ăn việc làm, t