Nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng và nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước mà trước hết là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp của Việt Nam nói riêng đang phải đương đầu với một cuộc cạnh tranh quyết liệt, trong đó có nhiều cơ hội để phát triển nhưng những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt cũng không nhỏ. Chất lượng của nguồn nhân lực vốn được xem là khâu then chốt để nâng cao tính bền vững của nền kinh tế, của phát triển xã hội thì vẫn còn nhiều hạn chế hay nói đúng hơn là vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Chính vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực nông thôn nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, với chỉ số ước đạt 55% lao động có tay nghề cao, nhằm đáp ứng được thách thức của nền kinh tế thị trường trong hiện tại và tương lai. Thông qua chiến lược này, Chính phủ kỳ vọng người lao động có đủ trình độ, độ nhạy cảm đối mặt với một thách thức rất lớn là môi trường làm việc mang tính cạnh tranh. Cạnh tranh với lao động trong nước và cạnh tranh với lao động nước ngoài, khi tham gia vào quá trình xuất khẩu lao động hay khi lao động nước ngoài trực tiếp vào làm việc tại Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp khi có tới 60,9 triệu người sống ở nông thôn chiếm 69,4% dân số cả nước, lao động nông thôn từ 15 tuổi trở lên chiếm 48,0% lực lượng lao động toàn xã hội (Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam năm 2011- tổng cục thống kê). Ngoài ra hằng năm lại có thêm gần 1 triệu người đến tuổi lao động bổ sung vào đội ngũ lực lượng lao động. Trong khi đó, vấn đề đào tạo nghề và sử dụng lao động đã được đào tạo đang còn nhiều bất cập như: Các trường đại học, cao đẳng ồ ạt mở rộng đào tạo đến cả bậc trung cấp nghề, nhưng hầu hết trang thiết bị của các trường nghề đều rơi vào tình trạng lạc hậu. Có những trường nghề hiện nay còn dùng các loại máy móc những năm 60 - 70 của thế kỷ 20 được nhập từ các nước Ðông Âu; đội ngũ giáo viên cũng chưa thật sự đủ mạnh để có thể truyền nghề cho học sinh của mình. Từ thực tiễn công tác đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng, chúng ta có thể nhận thấy một nghịch lý tồn tại hiển nhiên "thừa thầy thiếu thợ", chưa kể tâm lý học trung cấp rất khó tìm được việc làm, nếu có thì thu nhập cũng ở mức rất thấp.
Đào tạo nghề cho LĐNT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nói chung và LĐNT nói riêng để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước cần tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho LĐNT, có chính sách đảm bảo thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với LĐNT, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện thuận lợi để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho LĐNT. Theo số liệu của Niên giám thống kê năm 2010 tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo là 15,5% , trong đó LĐNT đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm 9,1%. Điều đó có nghĩa là chúng ta cùng lúc phải giải quyết được 3 vấn đề lớn: i) Chuyển dịch dần lực lượng lao động nông nghiệp sang lực lượng phi nông nghiệp; ii) Nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo, trong đó đặc biệt quan tâm đến lực lượng LĐNT; iii) Nâng cao chất lượng đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng. Với số lượng lớn lao động tập trung ở khu vực nông thôn và tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp như hiện nay, để giải quyết tốt đồng thời cả 3 vấn đề nêu trên thì giải pháp hữu hiệu nhất vẫn là mở rộng các hình thức đào tạo nghề cho lực lượng LĐNT. Đồng thời với việc mở rộng về số lượng thì phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Kim Bảng là huyện nằm ở phía Bắc của tỉnh Hà Nam và hiện nay việc phát triển các ngành nghề truyển thống, ngành dệt may, sản xuất xi măng đã thúc đẩy tình hình kinh tế - xã hội huyện Kim Bảng dần đi vào ổn định và có chiều hướng tăng trưởng tốt. Tuy nhiên nông nghiệp vẫn là lĩnh vực sản xuất vật chất quan trọng và cơ bản của huyện, thu hút nhiều LĐNT. Với tình hình đó, khi khoa học công nghệ phát triển và được áp dụng rộng rãi vào sản xuất thì lại chính là khó khăn lớn của huyện. Một bộ phận lớn LĐNT có xu hướng dôi dư nhưng lại rất khó để có thể bố trí việc làm cho họ. Vấn đề cơ cấu lại lực lượng LĐNT cũng gặp nhiều khó khăn do số lao động này chưa được đào tạo nghề khi tham gia vào lao động sản xuất phi nông nghiệp; số ít đã được đào tạo nghề thì trình độ nghề chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng về số lượng và chất lượng của sản xuất và xã hội.
Trong thời gian qua công tác đào tạo nghề trên địa bàn huyện đã đạt được những kết quả nhất định. Bước đầu đáp ứng được nhu cầu học nghề của người lao động, nhu cầu sử dụng lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, DN. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó thì công tác đào tạo nghề của huyện cũng gặp phải những khó khăn, hạn chế; chưa đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu của DN, của xã hội cả về số lượng và chất lượng, ngành nghề đào tạo. Do vậy, để công tác đào tạo nghề của huyện ngày càng phát triển, đáp ứng được nhu cầu của thời kỳ CNH, HĐH cần được các cấp, các ngành và toàn thể các tập thể, cá nhân trong và ngoài huyện hưởng ứng, đầu tư triển khai trong những giai đoạn tiếp theo. Với phương châm phát huy tối đa nguồn lực hỗ trợ từ Trung ương, địa phương và các tổ chức, DN trong và ngoài huyện. Kim Bảng đã triển khai nhiều giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế về chất lượng đào tạo nghề đối với LĐNT như: Liên kết đào tạo nghề với các DN; xây dựng mô hình dạy nghề mới; nghề truyền thống tại phương kết hợp với những hướng dẫn kiến thức phát triển kinh doanh cho các hộ gia đình hội viên có khả năng phát triển nghề theo quy mô tổ hợp, DN nhỏ; tổ chức dạy nghề lưu động tại các cơ sở và dạy nghề tại trung tâm dạy nghề huyện. Nhưng thực tế việc triển khai các hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT huyện thời gian qua diễn ra như thế nào? Có những yếu tố nào ảnh hưởng chính đến chất lượng đào tạo nghề cho người LĐNT huyện? Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người LĐNT huyện Kim Bảng thì trong thời gian tới cần thực hiện những giải pháp chủ yếu nào?
101 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7248 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn huyện Kim Bảng - Tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đều được chỉ rõ nguồn gốc. Đồng thời tôi xin cam đoan rằng trong quá trình thực hiện đề tài này tại địa phương tôi luôn chấp hành đúng mọi quy định của địa phương nơi thực hiện đề tài.
Sinh viên
Nguyễn Văn Thuynh
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp vừa qua, để hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các tập thể, các cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo Khoa KT & PTNT – Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo Th.S Trần Mạnh Hải, đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các đồng chí Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Công Thương và các Phòng ban khác của huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam đã giúp đỡ tôi nhiệt tình trong thời gian tôi thực tập tại địa phương.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã khích lệ, cổ vũ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Văn Thuynh
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Trang
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động đào tạo trong phong trào Saemaul Udong 25
Bảng 3.1: Tình hình phân bố và sử dụng đất đai của huyện Kim Bảng giai đoạn 2009 – 2011 34
Bảng 3.2: Tình hình dân số, lao động của huyện Kim Bảng năm 2011 35
Bảng 3.3: Cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện Kim Bảng năm 2011 36
Bảng 3.4: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Kim Bảng giai đoạn 2009 - 2011 40
Bảng 3.5: Bảng lựa chọn số lượng lao động điều tra tại mỗi xã 42
Bảng 3.6: Bảng thu thập thông tin thứ cấp 43
Bảng 4.1: Các hình thức đào tạo nghề cho lao động nông thôn huyện Kim Bảng (2009 – 2011) 47
Bảng 4.2: Số lượng lao động được đào tạo trên địa bàn huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam (2009- 2011) 51
Bảng 4.3: Số lượng ngành nghề đào tạo lao động nông thôn huyện Kim Bảng (2009 - 2011) 53
Bảng 4.4 Kết quả điều tra cán bộ, giáo viên về công tác đào tạo nghề trên địa bàn huyện năm 2011 56
Bảng 4.5: Đánh giá chung của người lao động về chất lượng đào tạo nghề 59
Bảng 4.6: Đánh giá của người lao động về hình thức và nội dung chương trình đào tạo 60
Bảng 4.7: Đánh giá của người lao động về việc tham gia học nghề 61
Bảng 4.8: Đánh giá của các cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng lao động nông thôn trên địa bàn huyện Kim Bảng 62
Bảng 4.9: Đội ngũ cán bộ, giáo viên tham gia công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn 65
Bảng 4.10: Cơ sở vật chất, trang thiết bị tại trung tâm dạy nghề huyện Kim Bảng năm 2011 67
Bảng 4.11: Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Kim Bảng 68
Hình 3.1: Cơ cấu GDP của huyện Kim Bảng giai đoạn 2009 - 2011 41
Hình 4.1: Đánh giá tay nghề của người lao động tại trung tâm dạy nghề huyện sau các khóa đào tạo. 57
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CC : Cơ cấu
CN : Công nghiệp
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DN : Doanh nghiệp
DT : Diện tích
ĐVT : Đơn vị tính
KHKT : Khoa học kỹ thuật
LĐNT : Lao động nông thôn
LĐ TB và XH : Lao động Thương binh và Xã hội
SL : Số lượng
SXKD : Sản xuất kinh doanh
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng và nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước mà trước hết là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp của Việt Nam nói riêng đang phải đương đầu với một cuộc cạnh tranh quyết liệt, trong đó có nhiều cơ hội để phát triển nhưng những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt cũng không nhỏ. Chất lượng của nguồn nhân lực vốn được xem là khâu then chốt để nâng cao tính bền vững của nền kinh tế, của phát triển xã hội thì vẫn còn nhiều hạn chế hay nói đúng hơn là vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Chính vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực nông thôn nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, với chỉ số ước đạt 55% lao động có tay nghề cao, nhằm đáp ứng được thách thức của nền kinh tế thị trường trong hiện tại và tương lai. Thông qua chiến lược này, Chính phủ kỳ vọng người lao động có đủ trình độ, độ nhạy cảm đối mặt với một thách thức rất lớn là môi trường làm việc mang tính cạnh tranh. Cạnh tranh với lao động trong nước và cạnh tranh với lao động nước ngoài, khi tham gia vào quá trình xuất khẩu lao động hay khi lao động nước ngoài trực tiếp vào làm việc tại Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp khi có tới 60,9 triệu người sống ở nông thôn chiếm 69,4% dân số cả nước, lao động nông thôn từ 15 tuổi trở lên chiếm 48,0% lực lượng lao động toàn xã hội (Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam năm 2011- tổng cục thống kê). Ngoài ra hằng năm lại có thêm gần 1 triệu người đến tuổi lao động bổ sung vào đội ngũ lực lượng lao động. Trong khi đó, vấn đề đào tạo nghề và sử dụng lao động đã được đào tạo đang còn nhiều bất cập như: Các trường đại học, cao đẳng ồ ạt mở rộng đào tạo đến cả bậc trung cấp nghề, nhưng hầu hết trang thiết bị của các trường nghề đều rơi vào tình trạng lạc hậu. Có những trường nghề hiện nay còn dùng các loại máy móc những năm 60 - 70 của thế kỷ 20 được nhập từ các nước Ðông Âu; đội ngũ giáo viên cũng chưa thật sự đủ mạnh để có thể truyền nghề cho học sinh của mình. Từ thực tiễn công tác đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng, chúng ta có thể nhận thấy một nghịch lý tồn tại hiển nhiên "thừa thầy thiếu thợ", chưa kể tâm lý học trung cấp rất khó tìm được việc làm, nếu có thì thu nhập cũng ở mức rất thấp.
Đào tạo nghề cho LĐNT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nói chung và LĐNT nói riêng để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước cần tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho LĐNT, có chính sách đảm bảo thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với LĐNT, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện thuận lợi để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho LĐNT. Theo số liệu của Niên giám thống kê năm 2010 tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo là 15,5% , trong đó LĐNT đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm 9,1%. Điều đó có nghĩa là chúng ta cùng lúc phải giải quyết được 3 vấn đề lớn: i) Chuyển dịch dần lực lượng lao động nông nghiệp sang lực lượng phi nông nghiệp; ii) Nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo, trong đó đặc biệt quan tâm đến lực lượng LĐNT; iii) Nâng cao chất lượng đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng. Với số lượng lớn lao động tập trung ở khu vực nông thôn và tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp như hiện nay, để giải quyết tốt đồng thời cả 3 vấn đề nêu trên thì giải pháp hữu hiệu nhất vẫn là mở rộng các hình thức đào tạo nghề cho lực lượng LĐNT. Đồng thời với việc mở rộng về số lượng thì phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Kim Bảng là huyện nằm ở phía Bắc của tỉnh Hà Nam và hiện nay việc phát triển các ngành nghề truyển thống, ngành dệt may, sản xuất xi măng đã thúc đẩy tình hình kinh tế - xã hội huyện Kim Bảng dần đi vào ổn định và có chiều hướng tăng trưởng tốt. Tuy nhiên nông nghiệp vẫn là lĩnh vực sản xuất vật chất quan trọng và cơ bản của huyện, thu hút nhiều LĐNT. Với tình hình đó, khi khoa học công nghệ phát triển và được áp dụng rộng rãi vào sản xuất thì lại chính là khó khăn lớn của huyện. Một bộ phận lớn LĐNT có xu hướng dôi dư nhưng lại rất khó để có thể bố trí việc làm cho họ. Vấn đề cơ cấu lại lực lượng LĐNT cũng gặp nhiều khó khăn do số lao động này chưa được đào tạo nghề khi tham gia vào lao động sản xuất phi nông nghiệp; số ít đã được đào tạo nghề thì trình độ nghề chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng về số lượng và chất lượng của sản xuất và xã hội.
Trong thời gian qua công tác đào tạo nghề trên địa bàn huyện đã đạt được những kết quả nhất định. Bước đầu đáp ứng được nhu cầu học nghề của người lao động, nhu cầu sử dụng lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, DN. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó thì công tác đào tạo nghề của huyện cũng gặp phải những khó khăn, hạn chế; chưa đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu của DN, của xã hội cả về số lượng và chất lượng, ngành nghề đào tạo. Do vậy, để công tác đào tạo nghề của huyện ngày càng phát triển, đáp ứng được nhu cầu của thời kỳ CNH, HĐH cần được các cấp, các ngành và toàn thể các tập thể, cá nhân trong và ngoài huyện hưởng ứng, đầu tư triển khai trong những giai đoạn tiếp theo. Với phương châm phát huy tối đa nguồn lực hỗ trợ từ Trung ương, địa phương và các tổ chức, DN trong và ngoài huyện. Kim Bảng đã triển khai nhiều giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế về chất lượng đào tạo nghề đối với LĐNT như: Liên kết đào tạo nghề với các DN; xây dựng mô hình dạy nghề mới; nghề truyền thống tại phương kết hợp với những hướng dẫn kiến thức phát triển kinh doanh cho các hộ gia đình hội viên có khả năng phát triển nghề theo quy mô tổ hợp, DN nhỏ; tổ chức dạy nghề lưu động tại các cơ sở và dạy nghề tại trung tâm dạy nghề huyện. Nhưng thực tế việc triển khai các hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT huyện thời gian qua diễn ra như thế nào? Có những yếu tố nào ảnh hưởng chính đến chất lượng đào tạo nghề cho người LĐNT huyện? Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người LĐNT huyện Kim Bảng thì trong thời gian tới cần thực hiện những giải pháp chủ yếu nào?
Từ thực tiễn đặt ra đó và được sự phân công thực tập tốt nghiệp của Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn - Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội nên tôi tiến hành lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu thực trạng đào tạo nghề cho LĐNT huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam trong thời gian qua; phân tích, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT của huyện, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người LĐNT của huyện trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề cho LĐNT
Đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT của huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam trong thời gian qua
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT huyện
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT huyện trong thời gian tới
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
* Chủ thể nghiên cứu: LĐNT, người học nghề, cán bộ quản lý dạy nghề, cán bộ quản lý DN trên địa bàn, cán bộ xã và các ngành có liên quan.
* Khách thể nghiên cứu: những vấn đề có liên quan đến đào tạo nghề và chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT ở huyện Kim Bảng – tỉnh Hà Nam.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
*Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung tìm hiểu những vấn đề chính sau:
- Tình hình học nghề của người LĐNT huyện Kim Bảng;
- Các hoạt động đào tạo nghề của các cơ sở dạy nghề ở huyện (hoạt động của trung tâm dạy nghề, hoạt động truyền nghề, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghề của các DN,...). Trong đó, đề tài tập trung chính vào việc phân tích, đánh giá chất lượng của các hoạt động đào tạo nghề.
- Những chính sách hỗ trợ học nghề, dạy nghề; công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề trên địa bàn của chính quyền tỉnh, huyện, xã.
* Phạm vi không gian: huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam
* Phạm vi về thời gian:
- Thông tin, số liệu thứ cấp: tìm hiểu nghiên cứu trong 3 năm 2009 - 2011
- Thông tin, số liệu sơ cấp: được nghiên cứu trong năm 2012
- Thời gian thực hiện đề tài: từ tháng 01/2012 đến tháng 06/2012
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm nghề
Theo quan niệm ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau nhất định, cho đến nay thuật ngữ “Nghề” được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Dưới đây chúng tôi xin đưa ra một số khái niệm.
Khái niệm nghề ở Nga được định nghĩa như sau: Nghề là một loại hoạt động đòi hỏi có sự đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh tồn.
Khái niệm nghề được định nghĩa ở Pháp: Nghề là một loại lao động có thói quen về kỹ năng, kỹ xảo của con người để từ đó tìm được phương tiện sống.
Ở Anh, nghề được định nghĩa: Nghề là một công việc chuyên môn đòi hỏi một sự đào tạo trong khoa học, nghệ thuật.
Còn ở Đức, khái niệm nghề được định nghĩa: Nghề là hoạt động cần thiết cho xã hội ở một lĩnh vực lao động nhất định, đòi hỏi phải được đào tạo ở trình độ nào đó.
Như vậy, nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử phổ biến, gắn chặt với sự phân công lao động, với tiến bộ KHKT và văn minh nhân loại.
Ở Việt Nam, nhiều định nghĩa nghề được đưa ra xong chưa được thống nhất, chẳng hạn có định nghĩa nêu: Nghề là một tập hợp lao động do sự phân công lao động xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang tính tương đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất hay do nhu cầu xã hội. Mặc dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau song chúng ta có thể thấy một số nét đặc trưng nhất định:
Một là: Nghề là hoạt động, là công việc lao động của con người được lặp đi lặp lại.
Hai là: Nghề là sự phân công là động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.
Ba là: Nghề là phương tiện để sinh sống.
Bốn là: Nghề là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã hội, đòi hỏi phải có quá trình đào tạo nhất định.
Nghề biến đổi một cách mạnh mẽ và gắn chặt với xu hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2.1.1.2 Khái niệm đào tạo nghề
Đào tạo được hiểu là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ,…để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng xuất và hiệu quả.
Đào tạo được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm thay đổi hành vi và thái độ làm việc của con người, tạo cho họ khả năng đáp ứng tiêu chuẩn và hiệu quả của công việc chuyên môn.
Đào tạo nghề là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận một công việc nhất định. Hay nói cách khác đó là quá trình truyền đạt, lĩnh hội những kiến thức và kỹ năng cần thiết để người lao động có thể thực hiện một công việc nào đó trong tương lai.
Đào tạo nghề là những hoạt động giúp cho người học có được các kiến thức về lý thuyết và kỹ năng thực hành một số nghề nào đó sau một thời gian nhất định người học có thể đạt được một trình độ để tự hành nghề, tìm việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao tay nghề theo những chuẩn mực mới.
Luật dạy nghề năm 2006 định nghĩa: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học”. Có thể thấy, về cơ bản khái niệm đào tạo nghề và dạy nghề không có sự khác biệt nhiều về nội dung.
Đào tạo nghề phục vụ cho mục tiêu kinh tế - xã hội, trước hết là phương hướng phân công lao động mới, tạo cơ hội cho mọi người đều được học tập nghề nghiệp để dễ dàng tìm kiếm việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn.
2.1.1.3 Lao động và lao động nông thôn
a) Khái niệm lao động
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người để tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội.
Theo khái niệm của Liên hợp quốc thì: “Lao động là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người vào cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội.
Hay theo Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) thì: “Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm”
Thực tế trong từng thời kỳ, và ở mỗi một nước trên thế giới quy định độ tuổi lao động khác nhau. Ở nước ta, theo bộ Luật lao động, độ tuổi lao động được quy định đối với nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi, đối với nữ từ 15 tuổi đến 55 tuổi. Xét về khía cạnh việc làm, lực lượng lao động gồm hai bộ phận là có việc làm và thất nghiệp.
b) Khái niệm về lao động nông thôn
LĐNT là những người thuộc lực lượng lao động và hoạt động trong hệ thống kinh tế nông thôn.
LĐNT là những người dân không phân biệt giới tính, tổ chức, cá nhân sinh sống ở vùng nông thôn, có độ tuổi từ 15 trở lên, hoạt động sản xuất ở nông thôn. Trong đó bao gồm những người đủ các yếu tố về thể chất, tâm sinh lý trong độ tuổi lao động theo quy định của Luật lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có khả năng tham gia sản xuất, trong một thời gian nhất định họ hoàn thành công việc với kết quả đạt được một cách tốt nhất.
2.1.1.4 Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Kết hợp từ khái niệm về đào tạo nghề và khái niệm LĐNT như đã trình bày ở trên chúng tôi xin đưa ra khái niệm về đào tạo nghề cho LĐNT như sau: đào tạo nghề cho LĐNT là hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của một nghề nào đó cho người lao động ở khu vực nông thôn, từ đó tạo ra năng lực cho người lao động đó có thể thực hiện thành công nghề đã được đào tạo”
2.1.1.5 Chất lượng đào tạo nghề
a) Quan niệm chất lượng
Có rất nhiều định nghĩa và cách lý giải khác nhau về khái niệm chất lượng. Có ý kiến cho rằng chất lượng là sự xuất chúng, tuyệt hảo, là giá trị bằng tiền, là sự biến đổi về chất và là sự phù hợp với mục tiêu. Các quan niệm về chất lượng chúng ta có thể thấy qua 5 định nghĩa sau:
Theo từ điển tiếng Việt phổ thông thì chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự việc)…làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác.
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng: Chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật hoặc cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia.
Theo Oxford Poket Dictationary: Chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản.
Theo tiêu chuẩn Pháp - NFX50-109: Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng.
Theo TCVN- ISO8402: Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn.
Nói tóm lại: Chất lượng là khái niệm trừu tượng, phức tạp và là khái niệm đa chiều, nhưng chung nhất đó là khái niệm phản ánh bản chất của sự vật và dùng để so sánh sự vật này với sự vật khác.
b) Chất lượng đào tạo nghề
Khái niệm “chất lượng” đã trừu tượng và phức tạp thì khái niệm về “chất lượng đào tạo nghề” càng phức tạp hơn bởi liên quan đến sản phẩm là giá trị của con người, một sự vật, sự việc. Như vậy có thể hiểu chất lượng là để chỉ sự hoàn hảo, phù hợp, tốt đẹp.
Chất lượng đào tạo nghề là khái niệm đa chiều, không thể trực tiếp đo đếm và cảm nhận được và luôn luôn biến đổi theo thời gian và theo không gian.
Chất lượng đào tạo nghề phản ánh trạng thái đào tạo nghề nhất định và trạng thái đó thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố tác động đến nó. Sẽ không thể biết được chất lượng đào tạo nếu chúng ta không đánh giá thông qua một hệ thống các chỉ tiêu và các yếu tố ảnh hưởng.
Khái niệm chất lượng đào tạo nghề là để chỉ chất lượng của người lao động được đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp, theo mục tiêu và chương trình đào tạo xác định trong các lĩnh vực ngành n