Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ) luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của quốc gia. Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp, chiến lược nhằm quan tâm toàn diện đến công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và các Bộ, ngành liên quan đã ban hành nhiều thông tư liên tịch, văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước về công tác này.
Ngày 14/01/1993 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 04 về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (gọi tắt là Nghị quyết TW 4 khoá VII), đây là văn bản có tính chất quan trọng, làm tiền đề cho những quyết sách về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình sau này của Đảng và Nhà nước.
Quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, qua hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết TW 04 khoá VII, với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình đã thực sự đi vào cuộc sống và đạt được những kết quả quan trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển rõ rệt, quy mô gia đình có một hoặc hai con được chấp hành ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,5 con năm 1992 xuống 2,28 con năm 2002, tỷ lệ tăng dân số giảm tương ứng từ hơn 2% còn 1,32%.
Kết quả công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm, xoá đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân. Với những thành tựu của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, năm 1999, Việt Nam đã được nhận giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, từ sau năm 2000 kết quả thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình chững lại và giảm sút. Từ khi Pháp lệnh Dân số ra đời năm 2003, trong hai năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ sinh con thứ ba tăng mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương, gây tác động tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Tình hình này đã làm chậm thời gian đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có 2 con).
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác này trong bối cảnh kinh tế, văn hoá và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thoả mãn với những kết quả đạt được ban đầu, buông lõng lãnh đạo, chỉ đạo. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình thiếu ổn định, quá tải, quản lý kém hiệu quả, việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một chính sách liên quan thiếu chặt chẽ.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 13057 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng hoạt động về công tác dân số kế hoạch hóa gia đình ở xã Bình Thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ) luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của quốc gia. Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp, chiến lược nhằm quan tâm toàn diện đến công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và các Bộ, ngành liên quan đã ban hành nhiều thông tư liên tịch, văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước về công tác này.
Ngày 14/01/1993 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 04 về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (gọi tắt là Nghị quyết TW 4 khoá VII), đây là văn bản có tính chất quan trọng, làm tiền đề cho những quyết sách về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình sau này của Đảng và Nhà nước.
Quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, qua hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết TW 04 khoá VII, với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình đã thực sự đi vào cuộc sống và đạt được những kết quả quan trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển rõ rệt, quy mô gia đình có một hoặc hai con được chấp hành ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,5 con năm 1992 xuống 2,28 con năm 2002, tỷ lệ tăng dân số giảm tương ứng từ hơn 2% còn 1,32%.
Kết quả công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm, xoá đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân. Với những thành tựu của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, năm 1999, Việt Nam đã được nhận giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, từ sau năm 2000 kết quả thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình chững lại và giảm sút. Từ khi Pháp lệnh Dân số ra đời năm 2003, trong hai năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ sinh con thứ ba tăng mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương, gây tác động tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Tình hình này đã làm chậm thời gian đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có 2 con).
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác này trong bối cảnh kinh tế, văn hoá và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thoả mãn với những kết quả đạt được ban đầu, buông lõng lãnh đạo, chỉ đạo. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình thiếu ổn định, quá tải, quản lý kém hiệu quả, việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một chính sách liên quan thiếu chặt chẽ.
Trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta chưa phát triển, tình trạng đói nghèo còn nhiều, tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp, quy mô dân số hiện nay khá lớn với hơn 85 triệu người (theo kết quả tổng điều tra Dân số và Nhà ở vào thời điểm 0 giờ tháng 01/4/2009 của Tổng cục Thống Kê), mật độ dân số vào hàng cao nhất thế giới (259 người/km2 vào năm 2009), chất lượng dân số chưa được cải thiện đáng kể…do đó, việc tăng dân số nhanh trở lại sẽ phá vỡ những thành tựu đạt được, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội và việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm chậm quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đặt nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong thời gian tới.
Xuất phát từ mục đích ý nghĩa to lớn ấy, công tác dân số - kế hoạch gia đình cần phải được quan tâm, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động. Đây là lý do em chọn đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động về công tác DS-KHHGĐ ở xã Bình Thành” làm báo cáo thực tập với hy vọng sử dụng những kiến thức đã được học ở trường và những kinh nghiệm thực tiễn vào việc tham mưu những giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện tốt công tác này tại địa phương.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC
DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH
I. Cơ sở lý luận:
1. Lý luận chung:
Dân số thế giới tăng trưởng ngày một nhanh, thời gian tăng thêm một tỷ người ngày càng rút ngắn trong thế kỷ XX nhưng đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ gia tăng dân số trong thế kỷ XXI.
Thế kỷ XX thường được gọi là “Thế kỷ dân số” hoặc thế kỷ của “Bùng nổ dân số”. Nhân loại đã chứng kiến dân số tăng phi thường từ 1,65 tỷ người vào đầu thế kỷ lên 6,06 tỷ người vào năm 2000, tăng 3,7 lần trong vòng 100 năm. Trong khi đó, vào thế kỷ XIX dân số thế giới chỉ tăng 1,7 lần từ gần 1 tỷ người lên 1,65 tỷ người cũng trong cùng khoảng thời gian 100 năm. Tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm ngày một tăng lên khoảng 0,5% vào năm 1850, khoảng 1,78% vào giai đoạn 1950 đến 1955, khoảng 2,04% vào giai đoạn từ 1965 đến năm 1970, khoảng 1,57% vào giai đoạn 1990 đến năn 1995 và hiện nay là 1,3%.
Quy mô dân số lớn vẫn tiếp tục gia tăng về số lượng tuyệt đối, song tốc độ gia tăng có xu hướng giảm.
Theo số liệu Tổng điều tra dân số ngày 01/4/1989 nước ta có 64.412.000 người, đến năm 2007 số dân đã tăng lên tới 85.154.000 người, năm 2008 tăng lên 86.160.000 người. Đến tổng điều tra dân số và nhà ở tại thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2009 dân số nước ta còn 85.789.573 người.
Dân số An Giang năm 1999 là 2.049.039 người, năm 2005 là 2.193.661 người, đến năm 2008 là 2.253.865 người.
Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay dân số Việt Nam tăng nhanh hoặc quá nhanh như giai đoạn 1954-1960 với tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm là 3,93%; 1960-1970: 3,24%; 1970-1976: 3%. Năm 1992 nhịp độ tăng dân số của nước ta là 2,26%, năm 1997: 1,88%. Tốc độ tăng dân số đã giảm từ 2,34% vào năm 1979 xuống còn 1,51% vào năm 1999 và 1,21% vào năm 2007.
Với tỷ lệ gia tăng dân số quá nhanh nói trên, mỗi ngày nước ta có thêm 3.100 người (tương đương dân số 1 xã nhỏ), mỗi tháng thêm khoảng 97.000 người (khoảng 1 huyện) và mỗi năm thêm khoảng 1,1 triệu người (tương đương dân số 1 tỉnh trung bình).
Sự gia tăng dân số quá nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của từng thành viên trong xã hội.
Vậy dân số - kế hoạch gia đình là?
Dân số là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính (khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh Dân số năm 2003).
Kế hoạch hoá gia đình là nỗ lực của Nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình (khoản 9 Điều 3 Pháp lệnh Dân số năm 2003).
2. Vai trò và tầm quan trọng của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình ở xã, phường:
Quá trình phát triển dân số ở xã chịu nhiều sự tác động của các yếu tố con người, môi trường kinh tế-xã hội; việc quản lý chương trình DS-KHHGĐ ở xã không chỉ bảo vệ lợi ích con người, hướng sự phát triển vào mục tiêu con người, vừa là tiền đề cho sự phát triển và phát triển bền vững. Do vậy, quản lý chương trình DS-KHHGĐ ở xã là hết sức quan trọng, là trách nhiệm của cộng đồng và toàn xã hội và là yếu tố quyết định thành công của công tác DS-KHHGĐ ở cấp xã.
Ban chỉ đạo DS-KHHGĐ đóng vai trò chỉ đạo, huy động các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, chính trị-xã hội và mọi tầng lớp nhân dân tham gia chương trình DS-KHHGĐ.
II. Cơ sở pháp lý:
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước:
1.1. Quan điểm của Đảng:
Tại Nghị quyết TW 4 khoá VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Đảng ta nêu rõ:
- Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.
- Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ kế hoạch hoá gia đình đến tận người dân; có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện kế hoạch hoá gia đình.
- Đầu tư cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.
- Huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu quả và đến tận người dân.
- Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyết định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình theo chương trình.
1.2. Quan điểm của Nhà nước:
Tại Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 nêu rõ:
- Công tác dân số là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội, góp phần quyết định để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Thực hiện đồng bộ, từng bước và có trọng điểm việc điều hoà quan hệ giữa số lượng với chất lượng dân số, giữa phát triển dân số với phát triển nguồn nhân lực, giữa phân bố và di chuyển dân cư với phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ quan trọng của công tác dân số; tập trung ưu tiên cho các vùng có mức sinh cao, vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa để giải quyết các vấn đề dân số và nâng cao mức sống nhân dân.
- Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho sự phát triển bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội trực tiếp, gián tiếp và rõ rệt. Nhà nước đảm bảo đủ nguồn lực cho công tác dân số, đồng thời vận động sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện trọ của quốc tế.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông - giáo dục về dân số và phát triển, kết hợp với việc thực hiện đầy đủ, có hiệu quả Chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh sản/kế hoạch hoá gia đình, tăng cường vai trò của gia đình và thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ sinh sản/kế hoạch hoá gia đình là các giải pháp cơ bản để đảm bảo tính bền vững của chương trình dân số và phát triển.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác dân số, đẩy mạnh xã hội hoá là yếu tố quyết định sự thành công của chương trình dân số và phát triển.
2. Cơ sở pháp lý:
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình hiện nay được tập trung thực hiện theo quy định tại các văn bản sau:
- Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 06/3/1995 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình.
- Chỉ thị số 37-CT/TTg ngày 17/01/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy nhanh thực hiện chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
- Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Ban Chấp hành Trung ương về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Nghị định số 114/NĐ-CP ngày 03/10/2006 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về dân số và trẻ em.
- Chỉ thị số 13/2007/CT-TTg ngày 06/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
- Hướng dẫn số 11/HD-UBKTTW ngày 24/03/2008 của Ban Chấp hành Trung ương về việc thực hiện Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
- Thông báo kết luận số 160-TB/TW ngày 04/6/2008 của Ban Bí thư về thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình và một số giải pháp cấp bách.
- Quyết định 170/2007/Qđ-TTg ngày 08/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia dân số - kế hoạch hoá gia đình giai đoạn 2006 - 2010.
- Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 04/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
- Kết luận số 44-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH
Ở XÃ BÌNH THÀNH
I. Đặc điểm tình hình:
Bình Thành là xã được thành lập trên cơ sở chia tách từ xã Thoại Giang, phía đông giáp xã Thoại Giang, phía tây giáp xã Tân Thành, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, phía nam giáp xã Thạnh Thắng, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, phía bắc giáp thị trấn Óc Eo. Với tổng diện tích tự nhiên 2.948,3 ha, trong đó đất sản xuất nông ngiệp 2.324,9 ha. Diện tích đất trồng lúa 2.324,9 ha; đất trồng hoa màu, cây trồng khác 7,2 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản 11 ha. Hầu hết người dân đều sinh sống bằng nghề nông và buôn bán nhỏ. Toàn xã có 1.987 hộ với 8.893 nhân khẩu, địa giới hành chính được chia làm 4 ấp với tổ (4 ấp đều được công nhận là ấp văn hoá). Toàn xã có 04 trường: 01 trường mẫu giáo, 2 trường tiểu học, 01 trường THCS và 5 điểm lẻ của 2 trường tiểu học, các điểm trường được phân bố đều trên toàn xã; có 01 trạm y tế, 01 chợ với tỷ lệ các hộ buôn bán, kinh doanh, dịch vụ thương mại chiếm 7%.
Tuy điều kiện xã còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, thu nhập bình quân đầu người thấp, hạ tầng cơ sở kỹ thuật yếu kém, giao thông đi lại khó khăn. Nhưng với tinh thần đoàn kết thực hiện chủ trương của Huyện uỷ - UBND huyện, Đảng bộ và nhân dân xã Bình Thành đã quyết tâm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu phấn đấu. Phong trào chuyển vụ từ 2 lên 3 vụ được người dân đồng tình ủng hộ làm cho sản lượng lương thực tăng, nhiều mô hình sản xuất, chăn nuôi có hiệu quả được nhân rộng trên toàn xã, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo hiện nay còn 4,2%.
Đặc biệt thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” từ năm 2006 đến Đảng bộ xã Bình Thành đã vận động nhân dân, các mạnh thường quân trong và ngoài xã xây dựng được 6 cây cầu bê tông với trị giá 2 tỷ 245 triệu đồng. Từ đó giúp cho việc giao thương và đi lại của người dân được thuận lợi. Trong năm 2009 xã đã vận động mạnh thường quân xây dựng 01 hội Mái ấm tình thương, qua đó từ tháng 7/2009 đến nay đã xét cất 18 căn nhà cho các gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn, góp phần thực hiện tốt công tác an sinh xã hội của huyện nói chung và của xã nói riêng.
II. Thực trạng công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình ở xã Bình Thành năm 2009:
1. Tổ chức dân số - kế hoạch hoá gia đình ở xã Bình Thành:
1.1. Công tác tổ chức:
Bộ máy làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình đã hình thành và hoạt động kể từ năm 1994 (sau khi Nghị quyết TW 4 khoá VII được ban hành vào ngày 14/01/1993) đến nay đã được 15 năm.
Qua 15 năm hình thành và phát triển công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình của cả nước nói chung và của xã Bình Thành nói riêng từng bước được củng cố, chất lượng hoạt động ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới của đất nước.
Cách đây 2 năm bộ máy làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình ở tuyến cơ sở chỉ hoạt động dựa trên sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn cấp trên và UBND xã, cán bộ làm công tác dân số chỉ hưởng định mức thù lao hàng tháng là 330.000 đồng, không có chế độ BHXH, BHYT như một cán bộ công chức.
Từ cuối năm 2008 đến nay công tác này đã được sát nhập vào công tác y tế, là một phần không thể thiếu trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Cán bộ làm công tác dân số đã được hưởng lương theo ngạch, bậc, trình độ chuyên môn, các chế độ BHXH, BHYT được thực hiện theo quy định của một viên chức nhà nước. Từ đó, giúp cho cán bộ an tâm tư tưởng, hết lòng phục vụ lâu dài cho công tác này.
Tiếp tục phát huy những hiệu quả đạt được từ những năm trước trong lĩnh vực này, Ban DS-KHHGĐ xã Bình Thành dưới sự chỉ đạo về chuyên môn của cơ quan cấp trên và UBND xã đã từng bước được hoàn thiện, chất lượng hoạt động được nâng lên, việc thực hiện công tác quản lý địa bàn, điều hành mạng lưới cộng tác viên ngày càng tốt hơn, công tác phối hợp với các ban ngành, đoàn thể trong công tác tuyên truyền, vận động cũng được quan tâm nhiều hơn.
Năm 2009 Uỷ ban nhân dân xã Bình Thành đã ra Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện công tác DS-KHHGĐ của xã, hiện nay Ban DS-KHHGĐ có 24 thành viên, trong đó đồng chí Phó Chủ tịch phụ trách khối văn hoá - xã hội làm trưởng ban, đồng chí Trưởng Trạm Y tế làm phó ban trực, 01 cán bộ làm công tác dân số; các ban ngành, đoàn thể và trưởng các ấp làm thành viên.
Ban DS-KHHGĐ xã Bình Thành hoạt động dựa trên hợp trách nhiệm được ký kết hàng năm, có phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng cho từng thành viên. Hàng tháng Ban DS-KHHGĐ đều tổ chức họp để đánh giá rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho từng tháng, quý. Từ đó, giúp cho xã hoàn thành các mục tiêu, chương trình về công tác dân số hàng năm, góp phần thực hiện thằng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương.
1.2. Kết quả thực hiện công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình năm 2009:
Năm 2009 là năm có nhiều biến động với công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình từ Trung ương đến địa phương do sắp xếp lại bộ máy tổ chức, trong những tháng đầu năm việc thực hiện các mục tiêu về dân số - kế hoạch hoá gia đình chỉ hoạt động cầm chừng, hình thức. Do đó, hầu hết các xã, thị trấn đều không đạt chỉ tiêu theo kế hoạch đề ra.
Sau khi được sắp xếp, ổn định bộ máy tổ chức được sự chỉ đạo Trung tâm DS-KHHGĐ huyện và UBND xã, Ban DS-KHHGĐ xã Bình Thành đã từng bước chấn chỉnh hoạt động thông qua công tác xây dựng kế hoạch, tham mưu tích cực cho lãnh đạo địa phương; nhiều hình thức tuyên truyền, vận động đối tượng áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại được thực hiện đạt hiệu quả cao như: họp nhóm, sinh hoạt câu lạc bộ lồng ghép, tư vấn tại trạm, vãng gia, nói chuyên chuyên đề…đặc biệt trong năm 2009 được sự chỉ đạo và hỗ trợ nguồn lực của UBND xã và sự phối hợp của các ban ngành, đoàn thể. Ban DS-KHHGĐ xã Bình Thành đã tổ chức thành công 2 đợt chiến dịch “Tăng cường truyền thông, vận động lồng ghép đưa dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ đến vùng đông dân, vùng có mức sinh cao, vùng khó khăn”.
Qua đó, trong năm 2009 công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình ở xã Bình Thành đã đạt được kết quả như sau:
- Chỉ tiêu dân số:
+ Dân số trung bình năm 2009 : 10.538 người.
+ Tỷ suất sinh thô năm 2009 : 17,8‰.
+ Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên : 8,12%.
+ Tỷ suất chết thô:
+ Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên năm 2009 : 1,7%.
- Chỉ tiêu kế hoạch hoá gia đình:
* Số người mới sử dụng biện pháp tránh thai trong năm 2009: 604 người.
Trong đó :
+ Đình