Thực hiện đường lối “Đổi mới” nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Ngày nay, trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới, thì vấn đề chất lượng lao động ngày càng được quan tâm nhiều hơn và trở thành vấn đề chủ yếu trong cạnh tranh với các nước khác. Nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp nông thôn (NNNT), chủ trương xây dựng nông thôn Việt Nam phát triển bền vững và thu hẹp khoảng cách khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Vì vậy, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lao động NNNT, tạo cơ hội để lao động tiếp cận được thị trường và có việc làm ổn định, tăng thu nhập là một trong các cách làm cho nông thôn ngày càng đổi mới và phát triển.
Tuy nhiên, “Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ còn ít về số lượng và còn nhiều hạn chế về kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng, phương pháp làm việc hiện đại. Cơ cấu trình độ, ngành nghề của nhân lực khoa học và công nghệ không đồng bộ, bất hợp lý, chưa tiếp cận được với mặt bằng trí thức chung của thế giới, năng lực sáng tạo hạn chế và hầu như chưa được thế giới công nhận (Việt Nam có rất ít đơn đăng ký phát minh sáng chế được tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới cấp và rất ít nhà khoa học Việt Nam có bài viết được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín được thế giới công nhận)”
Lao động chất lượng cao đang thiếu hụt nhưng lại có xu hướng rời khu vực NNNT, tìm đến thành thị để mang lại thu nhập cao hơn. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng lao động NNNT nhằm bổ sung lượng nhân lực mất đi do di chuyển qua các ngành kinh tế khác đồng thời đưa mặt bằng chất lượng lao động của khu vực này lên
Như vậy, có thể thấy rằng, chất lượng nguồn lao động NNNT còn ở mức thấp là vấn đề chung ở nhiều tỉnh thành của nước ta. Làm thế nào để nâng cao chất lượng nguồn lao động NNNT đã trở thành mối quan tâm của nhiều địa phương, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Huyện A Lưới là một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong thời gian qua, huyện đang nổ lực phấn đấu, tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế để sớm trở thành thị xã vùng cao miền Tây Trường Sơn. Do những đặc thù kinh tế xã hội riêng của mình, nên chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện có nhiều điểm khác biệt so với tỉnh Thừa Thiên Huế và nhiều địa phương khác. Nhận thấy tầm quan trọng của việc phát triển nguồn lao động, huyện đã có những chiến lược nhất định để phát triển nguồn lao động trong những năm qua.
Tuy vậy, thực tế đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề đáng quan tâm, đó là tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề thấp, lao động chất lượng cao chưa nhiều và lao động này thường không muốn ở lại địa bàn để làm việc. Lao động phần lớn là lao động chân tay phục vụ cho các ngành nông lâm nghiệp và xây dựng. Bên cạnh đó chính sách về nâng cao chất lượng nguồn lao động chưa cụ thể, chưa có những cuộc điều tra thống kê thực trạng nguồn lao động trên địa bàn huyện một cách sâu sắc.
Chính vì những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài:
“Nâng cao chất lượng lao động trong tiến trình CNH, HĐH ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
75 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2230 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng lao động trong tiến trình công nghệ hóa, hiện đại hóa ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối “Đổi mới” nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Ngày nay, trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới, thì vấn đề chất lượng lao động ngày càng được quan tâm nhiều hơn và trở thành vấn đề chủ yếu trong cạnh tranh với các nước khác. Nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp nông thôn (NNNT), chủ trương xây dựng nông thôn Việt Nam phát triển bền vững và thu hẹp khoảng cách khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Vì vậy, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lao động NNNT, tạo cơ hội để lao động tiếp cận được thị trường và có việc làm ổn định, tăng thu nhập là một trong các cách làm cho nông thôn ngày càng đổi mới và phát triển.
Tuy nhiên, “Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ còn ít về số lượng và còn nhiều hạn chế về kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng, phương pháp làm việc hiện đại. Cơ cấu trình độ, ngành nghề của nhân lực khoa học và công nghệ không đồng bộ, bất hợp lý, chưa tiếp cận được với mặt bằng trí thức chung của thế giới, năng lực sáng tạo hạn chế và hầu như chưa được thế giới công nhận (Việt Nam có rất ít đơn đăng ký phát minh sáng chế được tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới cấp và rất ít nhà khoa học Việt Nam có bài viết được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín được thế giới công nhận)”
Lao động chất lượng cao đang thiếu hụt nhưng lại có xu hướng rời khu vực NNNT, tìm đến thành thị để mang lại thu nhập cao hơn. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng lao động NNNT nhằm bổ sung lượng nhân lực mất đi do di chuyển qua các ngành kinh tế khác đồng thời đưa mặt bằng chất lượng lao động của khu vực này lên
Như vậy, có thể thấy rằng, chất lượng nguồn lao động NNNT còn ở mức thấp là vấn đề chung ở nhiều tỉnh thành của nước ta. Làm thế nào để nâng cao chất lượng nguồn lao động NNNT đã trở thành mối quan tâm của nhiều địa phương, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Huyện A Lưới là một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong thời gian qua, huyện đang nổ lực phấn đấu, tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế để sớm trở thành thị xã vùng cao miền Tây Trường Sơn. Do những đặc thù kinh tế xã hội riêng của mình, nên chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện có nhiều điểm khác biệt so với tỉnh Thừa Thiên Huế và nhiều địa phương khác. Nhận thấy tầm quan trọng của việc phát triển nguồn lao động, huyện đã có những chiến lược nhất định để phát triển nguồn lao động trong những năm qua.
Tuy vậy, thực tế đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề đáng quan tâm, đó là tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề thấp, lao động chất lượng cao chưa nhiều và lao động này thường không muốn ở lại địa bàn để làm việc. Lao động phần lớn là lao động chân tay phục vụ cho các ngành nông lâm nghiệp và xây dựng. Bên cạnh đó chính sách về nâng cao chất lượng nguồn lao động chưa cụ thể, chưa có những cuộc điều tra thống kê thực trạng nguồn lao động trên địa bàn huyện một cách sâu sắc.
Chính vì những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài:
“Nâng cao chất lượng lao động trong tiến trình CNH, HĐH ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Chính sách phát triển nhân lực là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, chính vì vậy đã có rất nhiều nghiên cứu ở các cấp độ từ trung ương đến địa phương về vấn đề trên. Nổi bật có “Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 4/2007. Sách "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên hiện nay", PGS.TS Nguyễn Đình Hoè chủ biên, nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2009.
Ngoài ra còn nhiều bài báo đăng trên nhiều tạp chí khác nhau, đáng chú ý có, Bài báo: “Về nguồn nhân lực của Việt Nam trong năm 2010 và những năm sau” của PGS,TS Đức Vượng, đăng ngày 24/02/2010 trên báo điện tử “”. Bài báo: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”, của tác giả Phạm Công Nhất, đăng ngày 15/4/2008, trên báo điện tử đảng Cộng sản Việt Nam “”
Nhận thấy, chưa có đề tài nào chọn nghiên cứu chất lượng lao động NNNT trên địa bàn huyện A Lưới nên tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng lao động NNNT trong tiến trình CNH, HĐH ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của đề tài là đánh giá chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng lao động NNNT trên địa bàn huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiển về chất lượng lao động, nâng cao chất lượng lao động NNNT nói chung và kinh nghiệm nâng cao chất lượng lao động ở một số địa phương trong nước.
+ Đánh giá thực trạng chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới trong tiến trình CNH, HĐH, ưu nhược điểm, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra.
+ Xây dựng phương hướng, giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng lao động ở huyện A Lưới trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu nguồn lao động trong NNNT giai đoạn CNH, HĐH ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi nghiên cứu: địa bàn huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian 2005- 2010 và đề xuất giải pháp đến 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác_Lênin. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp thống kê kinh tế
- Phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp phỏng vấn, dùng bảng hỏi
- Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
5.1. Phương pháp duy vật biện chứng
Đây là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội trong mối liên hệ chung và sự tác động qua lại lẫn nhau trong trạng thái phát triển không ngừng, trong tiến trình đó sự tích lũy về lượng sẽ dẫn đến những biến đổi về chất. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Phương pháp này cho phép phân tích đánh giá một cách khách quan các vấn đề nâng cao chất lượng lao động NNNT dưới sự ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế -xã hội.
5.2. Phương pháp duy vật lịch sử
Là phương pháp nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển của nó. Đòi hỏi đặt vấn đề nghiên cứu trong một tiến trình lịch sử nhất định. Phương pháp này yêu cầu nghiên cứu quá trình nâng cao chất lượng lao động NNNT trong giai đoạn CNH, HĐH với những đặc điểm khách quan và chủ quan khác nhau.
5.3. Phương pháp thống kê kinh tế
Phương pháp này giúp cho việc tổng hợp và phân tích thống kê các tài liệu điều tra về thực trạng nâng cao chất lượng lao động ở huyện A Lưới. Trên cơ sở các số liệu thu thập được, chúng ta có nhận thức đầy đủ, chính xác về sự thay đổi và biến động của các yếu tố liên quan đến vấn đề nghiên cứu cũng như sự ảnh hưởng của các yếu tố cấu thành nền kinh tế. Đây là phương pháp cho phép lượng hóa các kết luận và kết quả nghiên cứu có tính thuyết phục cao.
5.4. Phương pháp thu thập số liệu
Đề tài chủ yếu sử dụng các số liệu thứ cấp từ niên giám thống kê của Tổng cục thống kê, cục thống kê thỉnh Thừa Thiên Huế và phòng Thống kê huyện A Lưới; các số liệu kế hoạch và các báo cáo tổng kết tình hình kinh tế xã hội của huyện từ năm 2005-2010; các số liệu từ các chương trình dự án đầu tư trên địa bàn, các kết quả nghiên cứu, điều tra, quy hoạch của các ngành chuyên môn đã thực hiện trên địa bàn huyện và các tài liệu đã được đăng tải trên báo chí, tạp san, các đề tài khoa học trung ương và địa phương.
Tôi dự kiến thu thập số liệu thực tế thông qua các bảng hỏi ở năm địa ngẫu nhiên trên địa bàn A Lưới: ở khu vực trung tâm có xã A Ngo, phía tây có xã Hồng Bắc, phía đông có xã Hồng Hạ, phía bắc có xã Hồng Trung, phía Nam có xã Hương Phong. Mẫu đảm bảo tính điển hình khi chọn ra các địa bàn theo các trục phát triển kinh tế của huyện, đồng thời có cả địa bàn có kinh tế phát triển và địa bàn có trình độ phát triển thấp hơn, các xã có khoảng cách xa trung tâm huyện và gần trung tâm huyện. Các xã được chọn trên đều là những xã được xếp trong tiêu chí là các xã nông thôn. Trong phương pháp này gặp khó khăn nhất là địa bàn nằm rãi rác trên diện tích rộng, đồng thời quá trình điều tra lại vào đúng mùa mưa của phía Tây Trường Sơn nên khá khó khăn đi lại và bảo quản tài liệu. Bên cạnh đó, nhiều lao động không biết chữ, tự mình phải đặt các câu hỏi phù hợp để khai thác thông tin.
5.5. Phương pháp chuyên gia
Là phương pháp thu thập ý kiến đóng góp của những người có kiến thức chuyên sâu về vấn đề nghiên cứu như lãnh đạo các ban ngành trên địa bàn, các nhà khoa học có kiến thức liên quan. Trong phương pháp này sử dụng phỏng vấn những người đứng đầu cơ quan huyện ở những bộ phận quan trọng như Ban dân vận, phó chủ tịch ủy ban. Mục đích là khai thác những nhận định để đưa vào bài biết nhằm tăng tính sát thực với điều kiện địa phương.
5.6. Phương pháp phỏng vấn, dùng bảng hỏi
Phương pháp này dùng để xác định lại thực tế đúng đắn của các số liệu, nhân định đã có, bên cạnh đó cũng nhằm thu thập thêm các thông tin mang tính cảm tính, các nhận định cá nhân của người dân.
5.7. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
Đề tài sử dụng các phần mềm vi tính như SPSS, Excel để tổng hợp và tính toán các chỉ tiêu kinh tế xã hội, lao động. Các chỉ tiêu nghiên cứu chủ yếu được sử dụng chủ yếu trong đề tài là:
* Các chỉ tiêu phản ánh kết cấu và năng suất
- Chỉ tiêu kết cấu
- Chỉ tiêu về năng suất
* Các chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng trưởng và biến động của các hiện tượng
- Chỉ tiêu tốc độ phát triển
+ Tốc độ phát triển liên hoàn
+ Tốc độ phát triển định gốc
+ Tốc độ phát triển bình quân
- Chỉ tiêu tốc độ tăng giảm
+ Tốc độ tăng giảm liên hoàn
+ Tốc độ tăng giảm định gốc
+ Tốc độ tăng giảm bình quân
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc gia. Chỉ số này được phát triển bởi một kinh tế gia người Pakistan là Mahbub ul Haq vào năm 1990
6. Kết quả dự kiến
- Phân tích được thực trạng chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới.
- Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới.
7. Kết cấu đề tài
Gồm 3 phần phần mở đầu, phần nội dung với 3 chương và phần kết luận
Cụ thể như sau:
Phần 1- Mở đầu
Phần 2- Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiển của chất lượng lao động trong tiến trình CNH, HĐH
Chương 2: Thực trạng chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động NNNT ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
Phần 3- Kết luận
NỘI DUNG
Chương 1- Cơ sở lý luận và thực tiển của chất lượng lao động trong tiến trình CNH, HĐH
1.1. Nguồn lao động, chất lượng lao động NNNT
1.1.1. Khái niệm lao động, nguồn lao động, lao động NNNT, chất lượng lao động
1.1.1.1. Lao động và nguồn lao động
Lao động và nguồn lao động là một khái niệm khá rộng. Vì thế ở mỗi ngành, mỗi lĩnh vực và tùy mỗi góc độ tiếp cận khác nhau thì có những quan điểm khác nhau. Có nhiều từ ngữ được sử dụng đẻ hàm ý nói đến nguồn lao động đó là nhân lực, nguồn nhân lực, lao động. Những từ ngữ này có khác nhau về các gọi, nhưng được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu từ trước đến nay với cùng một ngữ nghĩa như nhau.
Thuật ngữ nguồn nhân lực xuất hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX khi mới có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý, sử dụng con người trong kinh tế lao động. Nếu như trước đây phương thức quản trị nhân viên với các đặc trưng coi nhân viên là lực lượng thừa hành, phụ thuộc, cần khai thác tối đa sức lao động của họ với chi phí tối thiểu thiểu từ những năm 80 đến nay với phương thức mới, quản lý nguồn nhân lực với tính chất mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn, tạo điều kiện tốt hơn để người lao động có thể phát huy ở mức cao nhất các khả năng tiềm tàng, vốn có của họ thông qua tích lũy tự nhiên trong quá trình lao động phát triển. Có thể nói sự xuất hiện của thuật ngữ "nguồn nhân lực" là một trong những biểu hiện cụ thể cho sự thắng thế của phương thức quản lý mới đối với phương thức quản lý cũ trong việc sử dụng nguồn lực con người.
Có khá nhiều những định nghĩa khác nhau về “nguồn nhân lực" chẳng hạn như:
Theo từ điển kinh tế chính trị: “Nguồn nhân lực là bộ phân dân cư của đất nước, có toàn bộ những khả năng thể chất, tinh thần có thể được sử dụng trong quá trình lao động”. [10]
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mô, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế -xã hội của quốc gia, khu vực, thế giới . Cách hiểu này về nguồn nhân lực xuất phát từ quan niệm coi nguồn nhân lực là nguồn lực với các yếu tố vật chất, tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung của các tổ chức;
Theo các tiếp cận của WB (Ngân hàng thế giới): “ Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn, thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… mà mỗi cá nhân sở hữu. Đây cũng là hướng tiếp cận của bộ môn khoa học kinh tế hiện đại, xem nguồn nhân lực là một loại nguồn lực bên cạnh các nguồn lực khác của quá trình sản xuất như vốn, công nghệ, cơ sở vật chất, tài nguyên thiên nhiên,…
Trong báo cáo của Liên hợp quốc đánh giá về những tác động của toàn cầu hóa đối với nguồn nhân lực đã đưa ra định nghĩa nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, kiến thức và năng lực thực có thực tế cùng với những năng lực tồn tại dưới dạng tiềm năng của con người. Quan niệm về nguồn nhân lực theo hướng tiếp cận này có phần thiên về chất lượng của nguồn nhân lực. Trong quan niệm này, điểm được đánh giá cao là coi các tiềm năng của con người cũng là năng lực khả năng để từ đó có những cơ chế thích hợp trong quản lý, sử dụng.
Ở mỗi nước khác nhau trên thế giới cũng có những quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực, mỗi quan niệm thể hiện được những đặc trưng riêng, quan điểm riêng của từng nước.
Ở Autralia, quan niệm về nguồn nhân lực là toàn bộ những người bước vào tuổi lao động, có khả năng lao động, và quan niệm này không giới hạn về tuổi của nguồn nhân lực.
Ở Pháp, nguồn nhân lực là những người ở trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và mong muốn có việc làm.
Tuy có những định nghĩa khác nhau tuỳ theo giác độ tiếp cận nghiên cứu nhưng điểm chung mà ta có thể dễ dàng nhận thấy qua các định nghĩa trên về nguồn nhân lực là:
Số lượng nhân lực. Nói đến nguồn nhân lực của bất kỳ một tổ chức, một địa phương hay một quốc gia nào câu hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu người và sẽ có thêm bao nhiêu nữa trong tương lai. Đấy là những câu hỏi cho việc xác định số lượng nguồn nhân lực. Sự phát triển về số lượngg nguồn nhân lực dựa trên hai nhóm yếu tố bên trong (ví dụ: nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng lao động) và những yếu tố bên ngoài của tổ chức như sự gia tăng về dân số hay lực lượng lao động do di dân;
Chất lượng nhân lực. Chất lượng nhân lực là mặt tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận như trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ, thẩm mỹ.v.v... của người lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực;
Như vậy, chất lượng lao động là một phần nội dung của nguồn lao động phản ánh mặt chất của lực lượng lao động trong nền kinh tế quốc dân.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng con người là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử. Với tư cách là thực thể xã hội, thông qua hoạt động thực tiển con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên và thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Hoạt động lao động sản xuất không chỉ là điều kiện tồn tại mà còn là phương thức để biến đổi đời sống và thay đổi bộ mặt xã hội. Do vậy, mỗi bước tiến của lịch sử, của xã hội luôn là kết quả hoạt động thực tiển của con người.
Trên cơ sở nắm bắt quy luật, thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, con người thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục đích và nhu cầu đặt ra. Từ đó khẳng định: “Không có hoạt động của con người thì không có quy luật xã hội và cũng không có xã hội loài người”.
Ngoài ra Ph. Ăngghen khi nói về vai trò con người đối với sự phát triển kinh tế xã hội đã nhấn mạnh: …chỉ có phương tiện cơ giới và hóa học phù hợp thì không đủ. Còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó nữa”.
Quan điểm phát triển nguồn nhân lực được khái quát trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Ở Việt Nam, trong các kì đại hội, từ kì đại hội I đến đại hội V, Bắt đầu từ kì đại hội VI khi thực hiện đường lối đổi mới thì những hệ thống quan điểm về nguồn nhân lực được hình thành và được đặt trong mối quan hệ với quá trình CNH của đất nước.
Đại hội VI, xác định nhiệm vụ bao trùm tổng quát ổn định tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH, HĐH trong những chặng đường tiếp theo. Khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là về phát triển nguồn lực, phát huy nhân tố con người.
Đại hội VII, khẳng định tiếp tục hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới do đại hội VI khởi xướng.
Đại hội VIII, chủ trương xây dựng nền kinh tế mở; lấy việc phát huy con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. “Phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội cũng khẳng định rằng: “ Phải đào tạo những người công dân dưới chế độ Chủ nghĩa xã hội phải vừa “hồng” vừa “chuyên”. “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc HĐH”.
Đại hội IX, phát huy những lợi thế của đất nước, gắn CNH với HĐH, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH. “Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH cần tạo chuyển biến cơ bản toàn diện về giáo dục đào tạo….Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản làm chủ kỹ năng, nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực phát huy, mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. ”
Đại hội X, “Xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh ; do nhân dân lao động làm chủ ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất...”. Đại hội X còn chỉ rõ phải phát huy kinh tế tri thức, nghĩa là phải phát huy yếu tố con người đây là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của CNH, HĐH. Đại hội xác định rõ mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 10 năm (2001-2010 ) là : “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Đại hội 11 xác định, Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao