Đề tài Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II tại ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á - Phòng giao dịch Tân Hiệp

Trên thếgiới cũng như ởViệt Nam, trong hoạt động của các NHTM thì tín dụng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trên cảhai phương diện: Quy mô sử dụng vốn và khảnăng tạo ra lợi nhuận. Ởphương diện sửdụng vốn thì đa phần các NHTM đều có tín dụng chiếm khoảng 70% trên tổng tài sản có. Do đó lợi nhuận và rủi ro từhoạt động này là cao nhất mà một NHTM phải đối mặt. [33] Trong nền kinh tếthịtrường, khi nhắc đến tín dụng thì tất cảmọi người kể cảcác nhà kinh tế đều đềcập đến vai trò to lớn của tín dụng đó là: Tín dụng là một kênh dẫn vốn từngười thừa vốn chưa có nhu cầu sửdụng đến người đang có nhu cầu sửdụng vốn. Theo đó, người cho vay sẽthu được lãi, người sửdụng cuối cùng sốvốn đó sẽtạo ra lợi nhuận, nền kinh tếsẽtạo ra được thêm việc làm. Từ các hệquảtrên, ta thấy tín dụng đã góp phần ổn định và phát triển nền kinh tếvà có thểcoi đây nhưlà mạch máu trong một cơthểsống. Nhưng chính hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro mà hệquảcủa nó gây ra cho nền kinh tếlà vô cùng to lớn. [33] Ngày nay, hòa mình vào xu thếhội nhập kinh tếthếgiới, các doanh nghiệp, tổchức nước ngoài sẽxâm nhập thịtrường Việt Nam mởra nhiều cơhội cùng với nhiều thách thức. Quá trình tựdo hóa tài chính và hội nhập quốc tếsẽtạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt từ đó làm cho nợxấu có thểgia tăng gây ảnh hưởng đến sựphát triển của nền kinh tếnói chung và của hệthống ngân hàng thương mại nói riêng. Từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết cho các nhà quản l ý vềtài chính – ngân hàng phải ứng dụng một biện pháp quản trịrủi ro sao cho hiệu quả nhất. Và nội dung của hiệp ước Basel II (06/2004) về“Tiêu chuẩn vốn quốc tế” giúp đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro, qua đó giảm thiểu được rủi ro mà nhất là rủi ro tín dụng, khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận đã được xem như là giải pháp nâng cao tiêu chuẩn ngân hàng tại hội nghịlần thứ21 của Hiệp Hội Ngân Hàng Châu Á.

pdf91 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2163 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II tại ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á - Phòng giao dịch Tân Hiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 1. Lý do chọn đề tài Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, trong hoạt động của các NHTM thì tín dụng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trên cả hai phương diện: Quy mô sử dụng vốn và khả năng tạo ra lợi nhuận. Ở phương diện sử dụng vốn thì đa phần các NHTM đều có tín dụng chiếm khoảng 70% trên tổng tài sản có. Do đó lợi nhuận và rủi ro từ hoạt động này là cao nhất mà một NHTM phải đối mặt. [33] Trong nền kinh tế thị trường, khi nhắc đến tín dụng thì tất cả mọi người kể cả các nhà kinh tế đều đề cập đến vai trò to lớn của tín dụng đó là: Tín dụng là một kênh dẫn vốn từ người thừa vốn chưa có nhu cầu sử dụng đến người đang có nhu cầu sử dụng vốn. Theo đó, người cho vay sẽ thu được lãi, người sử dụng cuối cùng số vốn đó sẽ tạo ra lợi nhuận, nền kinh tế sẽ tạo ra được thêm việc làm. Từ các hệ quả trên, ta thấy tín dụng đã góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế và có thể coi đây như là mạch máu trong một cơ thể sống. Nhưng chính hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro mà hệ quả của nó gây ra cho nền kinh tế là vô cùng to lớn. [33] Ngày nay, hòa mình vào xu thế hội nhập kinh tế thế giới, các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài sẽ xâm nhập thị trường Việt Nam mở ra nhiều cơ hội cùng với nhiều thách thức. Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt từ đó làm cho nợ xấu có thể gia tăng gây ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng. Từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết cho các nhà quản l ý về tài chính – ngân hàng phải ứng dụng một biện pháp quản trị rủi ro sao cho hiệu quả nhất. Và nội dung của hiệp ước Basel II (06/2004) về “Tiêu chuẩn vốn quốc tế” giúp đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro, qua đó giảm thiểu được rủi ro mà nhất là rủi ro tín dụng, khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận đã được xem như là giải pháp nâng cao tiêu chuẩn ngân hàng tại hội nghị lần thứ 21 của Hiệp Hội Ngân Hàng Châu Á. 2 Nhận thấy được tầm quan trọng của việc quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM, trong sự vận động của nền kinh tế, đồng thời thấy được tính ưu việt trong nội dung của Hiệp ước Basel II đối với quản trị rủi ro trong đó có rủi ro về tín dụng. Vì thế em quyết định thực hiện đề tài: “Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp” với mong muốn đem đến cái nhìn tổng quát về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng hiện tại. Qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng ứng dụng Basel II trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng. Từ đó hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng trong các NHTM nói chung và Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp nói riêng. 2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu đề tài Trên các diễn đàn kinh tế cũng như trong thực tế hoạt động của các NHTM, rủi ro tín dụng luôn là vấn đề được đề cập đến nhiều nhất. Nó được ví như là mắc xích quan trọng trong quản trị rủi ro của một ngân hàng NHTM. Tại hội nghị thường niên của Hiệp Hội Ngân Hàng Châu Á (ABA) tổ chức vào hai ngày 4 và 5/11/2004 với chủ đề: “Các Ngân Hàng Châu Á Vươn Lên Ngang Tầm Với Những Thách Thức” đã bàn đến việc ứng dụng nội dung Hiệp ước Basel II trong hệ thống NHTM để có thể hạn chế được các rủi ro. Chủ tịch ABA - Dong Soo Choi cho rằng: “Tất cả các ngân hàng trong khu vực cần nâng cấp hơn nữa để đáp ứng được những quy định của Basel II”. [31] Trong ngành Tài chính - Ngân hàng, quản trị rủi ro tín dụng luôn là đề tài nóng được các sinh viên, giảng viên, nghiên cứu sinh và các chuyên gia tham gia bàn luận sôi nổi bằng các bài báo khoa học, các công trình nghiên cứu nhằm tạo sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn để tìm được cách giải quyết hợp lý và khoa học nhất trong lĩnh vực này. Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của trường đại học Lạc Hồng thì đề tài về nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng đã có một số sinh viên thực hiện. Các đề tài đều đã đề ra được một số biện pháp tháo gỡ những khó khăn tồn 3 tại trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, mở rộng và nâng cao chất lượng hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, mỗi tác giả thực hiện đề tài của mình trong thời gian, không gian, và tình hình kinh tế xã hội khác nhau nên sẽ có những đề xuất, kiến nghị khác nhau mà trong đó sẽ có những đề xuất không còn phù hợp trong tình hình kinh tế phát triển theo xu thế hội nhập toàn cầu, cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay. Do đó, em quyết định tiếp tục thực hiện đề tài này nhưng sẽ đi sâu nghiên cứu về khả năng ứng dụng Basel II – một giải pháp được nhiều nước phát triển áp dụng trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng. Từ đó nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng ở các NHTM nói chung và Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp nói riêng. 3. Mục tiêu nghiên cứu ¾ Tiếp cận và nắm bắt được tình hình QTRRTD tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp. ¾ Phân tích được ưu và nhược điểm của công tác QTRRTD hiện tại, đánh giá mức độ ứng dụng Basel II trong QTRRTD tại ngân hàng. ¾ Đề ra giải pháp và kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao khả năng ứng dụng Basel II trong QTRRTD từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á cũng như PGD Tân Hiệp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu • Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động QTRRTD và ứng dụng Basel II tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp. • Phạm vi nghiên cứu: - Thời gian nghiên cứu: Năm 2008, 2009, 2010. - Không gian nghiên cứu: Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp. 4 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tại bàn sách: Thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu. - Phương pháp thực tế hiện trường: Thu thập số liệu qua khảo sát thực tế, phỏng vấn trao đổi với cán bộ phụ trách đơn vị. 6. Đóng góp mới của đề tài Đất nước ngày càng đi lên với sự phát triển kinh tế ngày càng mạnh mẽ. Theo đó thì tất cả các lĩnh vực, các thành phần trong nền kinh tế đều có sự chuyển mình theo từng ngày, từng giờ cho phù hợp với tình hình mới trước những biến động trong nước và trên thế giới. Và ở lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng thì yêu cầu đổi mới là cấp thiết hơn bao giờ hết. Đề tài “Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp” được tiến hành trên cơ sở thu thập mới số liệu trong hoạt động tín dụng, và việc ứng dụng Basel II trong QTRRTD của hệ thống NHTM nói chung và Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á nói riêng trong năm 2010 sẽ đem đến cái nhìn tổng quát về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng trong tình hình hội nhập kinh tế thế giới theo tinh thần Hiệp ước Basel II. Qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng ứng dụng Basel II trong QTRRTD, từ đó nâng cao hiệu quả QTRRTD của các NHTM trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. 7. Kết cấu nội dung nghiên cứu Chương 1: Tổng quan lý luận về QTRRTD theo Basel II trong NHTM. Chương 2: Thực trạng ứng dụng Basel II trong QTRRTD tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp. Chương 3: Giải pháp nâng cao khả năng ứng dụng Basel II trong QTRRTD tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Á – Phòng giao dịch Tân Hiệp. 5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THEO BASEL II TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Lý luận về RRTD trong hoạt động của NHTM 1.1.1 Khái niệm tín dụng Tín dụng là một thuật ngữ có gốc từ tiếng La Tinh là: Creditum, mang ý nghĩa “tin tưởng, tín nhiệm”. Trong Tiếng Anh đó là “Credit” và theo Tiếng Việt diễn giải đó là sự vay mượn. [13] Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định dựa trên nguyên tắc có sự hoàn trả cả vốn và lãi theo thời hạn đã thỏa thuận. [13] Cho vay vốn Chủ thể cho vay Chủ thể đi vay (Lender) Hoàn trả vốn và lãi (Borrower) Sơ đồ 1.1 Định nghĩa tín dụng [13] (Nguồn: Đoàn Thị Hồng Nga, Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh 7 TPHCM) [13] Bài nghiên cứu này chúng ta chỉ xem xét tín dụng của NHTM và tín dụng trong hoạt động của một ngân hàng được định nghĩa như sau: Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ NH cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định. [11] Cũng như quan hệ TD khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung: [11] ¾ Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng; [11] ¾ Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính tạm thời; [11] ¾ Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí. [11] 1.1.2 Rủi ro tín dụng 1.1.2.1 Khái niệm RRTD Theo điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động NH của TCTD (ban hành theo Quyết định 6 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN) thì “RRTD trong hoạt động NH của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động NH do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. [15] Nói cách khác, RRTD là rủi ro phát sinh khi khách hàng không thực hiện đúng các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng TD sau khi được NH cấp TD. 1.1.2.2 Phân loại RRTD Theo nguyên nhân dẫn đến RRTD thì RRTD được phân loại theo sơ đồ sau: Sơ đồ 1.2 Phân loại RRTD [4] (Nguồn: Trần Tiến Chương, Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam) [4] Theo như sơ đồ thì RRTD được phân thành hai loại chính: Rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục. Rủi ro giao dịch: Là rủi ro phát sinh trong quá trình ngân hàng cấp TD cho khách hàng. Nó bao gồm các rủi ro sau: • Rủi ro lựa chọn: Xuất phát từ những sai sót trong các khâu về thẩm định, xét duyệt hồ sơ cấp TD cho khách hàng. • Rủi ro bảo đảm: Là loại rủi ro liên quan đến những điều khoản đảm bảo và cam kết trong hợp đồng TD có chỗ chưa rõ ràng hoặc sơ hở làm cho ngân hàng không thu hồi được khoản TD đã cấp đúng như mong đợi. Rủi ro tín dụng Rủi ro giao dịch Rủi ro danh mục Rủi ro lựa chọn Rủi ro bảo đảm Rủi ro nghiệp vụ Rủi ro nội tại Rủi ro tập trung 7 • Rủi ro nghiệp vụ: Phát sinh từ việc thiếu quản lý, giám sát khoản TD đã cấp, để cho người đi vay sử dụng khoản TD đã cấp không đúng như cam kết dẫn đến làm ăn thua lỗ và mất khả năng hoàn trả. Tiếp đến là rủi ro danh mục, đây là rủi ro xuất phát từ những hạn chế trong việc quản lý nhiều khoản TD kết hợp với nhau trong danh mục TD của ngân hàng. Nó bao gồm hai loại rủi ro là: Rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. • Rủi ro nội tại là rủi ro liên quan đến những đặc điểm riêng có của từng loại TD như là: Cho vay tín chấp hay thế chấp, thời hạn vay dài hay ngắn, lĩnh vực hoạt động của khoản TD được cấp. • Rủi ro tập trung xuất hiện khi ngân hàng thiếu sự đa dạng trong hoạt động cấp TD như chỉ tập trung cấp TD có các khách hàng hoạt động trong cùng lĩnh vực, cấp TD với lãi suất cao, … tất cả những điều này một khi có sự biến động không tốt xảy ra thì danh mục TD của ngân hàng sẽ bị tác động toàn bộ do mang tính tập trung nên hiệu ứng sẽ xảy ra cùng lúc. 1.1.3 Nguồn gốc phát sinh RRTD trong NHTM 1.1.3.1 Từ phía khách hàng Khách hàng là chủ thể được cấp TD nên các nguyên nhân phát sinh RRTD từ đối tượng này là chủ yếu nhất, như là: Sau khi được cấp TD, khách hàng sử dụng vốn vay không đúng như cam kết, làm ăn thua lỗ gây thất thoát vốn từ đó mất khả năng trả lãi và vốn gốc cho NH. Khách hàng sau khi được cấp TD có hành vi vi phạm pháp luật bị cơ quan công an truy tố phải chịu án tù hay tử hình từ đó không còn khả năng trả nợ. Nguyên nhân phổ biến nhất gây phát sinh RRTD từ phía khách hàng đó chính là khách hàng không có thiện chí trả nợ. Cho nên dù có khả năng tài chính đầy đủ nhưng khách hàng vẫn tìm mọi cách trì hoãn hay từ chối thanh toán vốn gốc và lãi cho ngân hàng. 1.1.3.2 Từ phía ngân hàng 8 Ngân hàng dù luôn mong muốn hạn chế đến mức thấp nhất mọi RRTD nhưng cũng chính trong bản thân chủ thể này vẫn tồn tại một số yếu tố tiềm ẩn có thể gây ra RRTD như sau: Quy trình TD của ngân hàng còn bộc lộ nhiều sai sót đặc biệt là ở khâu thẩm định. Các quyết định sai lầm ở khâu này sẽ dẫn đến việc cấp TD cho những dự án không khả thi, rủi ro cao hay cấp TD cho những khách hàng có lịch sử trả nợ không tốt, có tài sản đảm bảo không đáng giá, không hợp pháp, nằm trong diện tranh chấp, … từ đó làm cho RRTD cao, việc thu hồi nợ trở nên khó khăn. Hiện nay việc lập hồ sơ, đánh giá để xét duyệt cấp TD là ở cán bộ TD nên RRTD xuất phát từ đối tượng này là cao hơn bao giờ hết khi mà các cán bộ TD có tư cách đạo đức không tốt, trục lợi cá nhân hoặc chuyên môn nghiệp vụ còn yếu kém thì tất yếu việc cấp những khoản TD xấu sẽ không tránh khỏi. Sau khi đã cấp TD, nếu ngân hàng không giám sát để cho khách hàng sử dụng vốn vay không đúng như mục đích đã cam kết thì sẽ dẫn đến thất thoát vốn thậm chí mất khả năng hoàn trả. RRTD còn phát sinh do chính sách TD không hợp lý của ngân hàng. Khi áp dụng chính sách thắt chặt, NH chỉ tập trung cấp TD cho một số lĩnh vực hoạt động hay những dự án có tỷ suất sinh lợi cao như: Bất động sản, chứng khoán, … mà lợi nhuận càng nhiều thì rủi ro sẽ càng cao. Do đó RRTD của ngân hàng cũng tăng lên. Ngược lại, với chính sách TD mở rộng thực hiện trong tình hình cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến việc cấp TD quá dễ dàng có khi là liều lĩnh. Vì thế nếu có nhiều khoản nợ không thể thu hồi khi thực hiện chính sách này thì đó là điều tất yếu. 1.1.3.3 Một số nguyên nhân mang tính khách quan khác Tác động của môi trường vĩ mô: Giá cả, cung cầu hàng hóa, … làm cho kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp không được như mong đợi, từ đó lợi nhuận của doanh nghiệp có nguy cơ giảm xuống và thậm chí là thua lỗ. Về phía khách hàng cá nhân, khi giá cả tăng lên dẫn đến chi phí sinh hoạt ngày càng cao hơn so với các khoản thu nhập nên việc trả nợ trở nên khó khăn hơn. 9 Chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh: Khi chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh xảy ra thì không một cá nhân hay tổ chức nào có thể tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh. Điển hình gần đây nhất đó là khi đại dịch H1N1 bùng nổ trên toàn cầu vào năm 2010 thì Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) yêu cầu phong tỏa, tạm ngưng hoạt động bất cứ đơn vị nào phát hiện có dịch để kiểm tra phòng ngừa dịch bệnh lan rộng. Trong tình hình như vậy thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị đình trệ nên khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. An ninh, chính trị quốc gia: Hoạt động trong một quốc gia mất an ninh xã hội, bất ổn về chính trị thì RRTD của ngân hàng là vô cùng lớn. Vì sau khi được cấp TD thì khách hàng khó có thể làm ăn, kinh doanh thuận lợi trong tình hình thiếu an ninh và bất ổn về chính trị, như vậy thu nhập và lợi nhuận sẽ không ổn định dẫn đến việc thanh toán lãi và nợ gốc cho ngân hàng cũng khó đảm bảo đúng như cam kết trong hợp đồng TD. Môi trường pháp lý: Đây là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh nợ quá hạn. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ và đồng bộ, không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hợp đồng kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho NH. [30] Nói chung các nguyên nhân khách quan gây ra RRTD là những nguyên nhân nằm ngoài tầm kiểm soát của cả khách hàng lẫn ngân hàng, nên cho dù ngân hàng có các biện pháp phòng chống RRTD tuyệt vời, khách hàng có thiện chí trả nợ thì ngân hàng cũng khó có thể thu hồi được khoản TD đã cấp như mong muốn. 1.1.4 Tác động của RRTD RRTD luôn tồn tại trong mọi nghiệp vụ cấp TD của NHTM mà tác động của nó không chỉ trong nội bộ của mỗi NHTM mà nó còn có tính lan truyền trong cả hệ thống NH và thậm chí là ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia. 1.1.4.1 Đối với hoạt động của NHTM Như ta đã biết, NHTM hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay”, vốn cho vay chủ yếu dựa trên nguồn vốn ngân hàng huy động được và lãi suất cho vay 10 phải lớn hơn lãi suất huy động thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới đảm bảo an toàn và có hiệu quả. Các khoản nợ quá hạn một mặt làm kéo dài thời hạn các khoản TD, mặt khác có khả năng dẫn đến làm mất vốn của các NHTM làm cho các NHTM rơi vào tình thế không đảm bảo khả năng hoàn trả vốn cho người gửi tiền. Tình trạng mất khả năng thanh toán tạm thời có thể làm giảm uy tín của ngân hàng một cách nghiêm trọng, đánh mất lòng tin của người gửi tiền đối với ngân hàng. Những người gửi tiền đồng loạt đòi rút tiền đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản. Các khoản nợ quá hạn luôn chứa đựng khả năng không thu hồi được vốn (một phần hoặc toàn bộ) và đặt NHTM trước tình trạng mất vốn. [13] 1.1.4.2 Đối với hệ thống NHTM Hoạt động của một ngân hàng trong một quốc gia có liên quan đến hệ thống ngân hàng và các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân trong nền kinh tế. Do vậy nếu một ngân hàng có kết quả hoạt động xấu, thậm chí dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá sản thì sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng xấu các ngân hàng và các bộ phận kinh tế khác. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của NHNN và Chính phủ thì tâm lý sợ mất tiền sẽ lây lan đến toàn bộ người gửi tiền và họ sẽ đồng loạt rút tiền tại các NHTM làm cho các ngân hàng khác vô hình chung cũng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.[4] 1.1.4.3 Đối với nền kinh tế Ở mức độ trầm trọng, nợ quá hạn không chỉ làm cho một NHTM bị mất vốn, mất khả năng thanh toán, đi đến phá sản ngân hàng mà còn kéo theo sự chao đảo của một loạt các NHTM khác trong hệ thống các ngân hàng. Sự việc đó sẽ gây rối loạn quá trình lưu thông tiền tệ trong nước, giảm giá đồng nội tệ, dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh, gây khủng hoảng kinh tế trầm trọng. [13] 1.1.4.4 Trong quan hệ kinh tế quốc tế Khi hệ thống ngân hàng của một quốc gia xảy ra sự cố về RRTD dẫn đến tính thanh khoản giảm. Điều này sẽ làm xấu đi hình ảnh và uy tín trong các quan hệ hợp tác quốc tế của các NHTM trong nước và cũng như chính quốc gia đó. 11 Tóm lại, RRTD của một ngân hàng xảy ra sẽ gây ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau: Nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi phải trích lập dự phòng, không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn gốc và lãi vay, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.[4] 1.1.5 Một số chỉ tiêu đánh giá RRTD RRTD là rủi ro không thu hồi được lãi và gốc của các khoản TD đã cấp cho khách hàng. Vì thế các chỉ tiêu đánh giá RRTD chủ yếu ghi nhận từ các khoản nợ quá hạn, nợ xấu. Do đó, chúng ta cần nắm rõ cách phân loại nợ của một NHTM theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước (phụ lục 1) để hiểu được một số chỉ tiêu đánh giá RRTD như sau: 1.1.5.1 Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn là thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh thể chế. Nó tác động tới tất cả các lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng. Cách xác định chỉ tiêu này với kết quả thấp sẽ chứng tỏ các khoản TD của ngân hàng đảm bảo chất lượng, mức rủi ro trong việc cấp TD của ngân hàng là thấp. Ngược lại, nếu tỷ lệ này cao thể hiện khả năng sử dụng đồng vốn của ngân hàng thấp. [8] Dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ cho vay x100% [8] Số khách hàng quá hạn Tỷ lệ nợ khách hàng có nợ quá hạn = Tổng số khách hàng có dư nợ x100% [1] 1
Luận văn liên quan