Đề tài Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án cho vay ở Sở giao dịch I Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam

Năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này tạo ra cho cả nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói ri êng những thời cơ thu ận lợi cho sự phát triển trong tương lai, đồng thời nó cũng tạo ra những thách thức khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp tham gia trong nền kinh tế. Một trong những khó khăn cơ bản mà chúng ta gặp phải là tình trạng thiếu vốn đầu tư. Tuy nhiên hiệu quả của việc sử dụng vốn như thế nào làđiều quan trọng hơn cả và hiện nay vấn đề này đang mang tính thời sự thu hút sự quan tâm rộng rãi của mọi thành phần kinh tế trong x ã hội. Đểđáp ứng nguồn tài chính cho hoạt động đầu tư, nhất làđối với các dựán có quy mô lớn, các chủđầu tư phải tìm kiếm nguồn tài ch ính hỗ trợ từ bên ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư xã hội để tài trợ cho dựán thông qua nhiều con đường khác nhau. Trong đó, nguồn tài trợ vốn cho dựán từ các Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nhất là trong điều kiện Việt Nam hi ện nay, khi các kênh dẫn vốn khác còn rất hạn chế hoặc hoạt động chưa được hiệu quả. Trong quá trình thực hiện tài trợ dựán, điểm mấu chốt nh ất mà các Ngân hàng đều quan tâm đó là tính hiệu quả và tính an toàn của khoản đầu tài trợ cung ứng cho dựán.

pdf92 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1809 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án cho vay ở Sở giao dịch I Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD Luận văn: “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án cho vay tại Sở giao dịch I Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam” Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD LỜI NÓI ĐẦU Năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này tạo ra cho cả nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng những thời cơ thuận lợi cho sự phát triển trong tương lai, đồng thời nó cũng tạo ra những thách thức khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp tham gia trong nền kinh tế. Một trong những khó khăn cơ bản mà chúng ta gặp phải là tình trạng thiếu vốn đầu tư. Tuy nhiên hiệu quả của việc sử dụng vốn như thế nào làđiều quan trọng hơn cả và hiện nay vấn đề này đang mang tính thời sự thu hút sự quan tâm rộng rãi của mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Đểđáp ứng nguồn tài chính cho hoạt động đầu tư, nhất làđối với các dựán có quy mô lớn, các chủđầu tư phải tìm kiếm nguồn tài chính hỗ trợ từ bên ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư xã hội để tài trợ cho dựán thông qua nhiều con đường khác nhau. Trong đó, nguồn tài trợ vốn cho dựán từ các Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nhất là trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi các kênh dẫn vốn khác còn rất hạn chế hoặc hoạt động chưa được hiệu quả. Trong quá trình thực hiện tài trợ dựán, điểm mấu chốt nhất mà các Ngân hàng đều quan tâm đó là tính hiệu quả và tính an toàn của khoản đầu tài trợ cung ứng cho dựán. Sử dụng vốn thực sự là một bài toán khó và cấp bách, đòi hỏi phải có những giải pháp kịp thời và hiệu quả. Một trong sốđó chúng ta có thể tìm ra từ công tác thẩm định tại các ngân hàng. Từ những lý do như trên vàđược sự hướng dẫn của các anh chị cán bộ Phòng thẩm định Sở giao dịch I Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, em đã lựa chọn tìm hiểu chuyên đề với đề tài: “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dựán cho vay tại Sở giao dịch I Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. Mặc dùđã cẩn thận giới hạn chuyên đề vào mặt thẩm định tài chính, nhưng em cũng biết rằng thẩm định là một công việc đòi hỏi rất nhiều kinh nghiệm và phương pháp tiếp cận. Vì vậy, phương pháp nghiên cứu mà em sử dụng ởđây cũng đơn giản, quen thuộc. Các lý thuyết thẩm định trước hết được tổng hợp sau Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD đóđược áp dụng để xem xét, phân tích tình hình hoạt động thực tiễn tại Ngân hàng. Toàn bộ nội dung chính của chuyên đề gồm 3 phần: Phần I: Lý thuyết về thẩm định tài chính dựán đầu tư tại Ngân hàng thương mại Phần II: Thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dựán cho vay tại Sở giao dịch I Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Phần III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định dựán đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam. Ngoài sự nỗ lực cuả cá nhân, luận văn đãđược hoàn thành với sự giúp đỡ, đóng góp của rất nhiều người. Em xin trân trọng cảm ơn thầy giáo PGS.TS Nguyễn Hữu Tài và nhiều thầy cô giáo khác về những kiến thức cơ bản em đã nhận được trên giảng đường và những lời chỉ dạy bổích cho bài viết này. Em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với toàn thể cán bộ phòng Thẩm định dựán Sở giao dịch I Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. Những tài liệu tham khảo và những điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận, học hỏi công việc mà em nhận được từ cán bộ Sở giao dịch I đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc hoàn thành chuyên đề thực tập này. Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2007. Sinh viên: NGUYỄNDUYÊN NGỌC Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD PHẦNI LÝTHUYẾTVỀTHẨMĐỊNHTÀI CHÍNHDỰÁNĐẦUTƯTẠI NGÂNHÀNGTHƯƠNGMẠI I/ DỰÁNĐẦUTƯVÀTHẨMĐỊNHDỰÁNĐẦUTƯ. 1. Dựán đầu tư: a/ Đầu tư - theo cách hiểu đơn giản nhất - là việc hi sinh một hoặc một số lợi ích nào đó trong hiện tại đểđạt được những lợi ích lớn hơn trong tương lai. Tuy vậy, một khái niệm quá rộng thường ít cóý nghĩa. Các ngân hàng, để phục vụ tốt cho hoạt động của mình thì cần một định nghĩa hẹp hơn, theo đó các hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sinh hoạt, đời sống... Dựa theo các tiêu chí khác nhau như thời gian dựán, quan hệ quản lý của chủđầu tư, lĩnh vực hoạt động, đặc điểm hoạt động... hoạt động ĐT được chia ra thành nhiều loại khác nhau để tiện cho việc theo dõi, quản lý vàđề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư theo dựán. Phần chủ yếu và quan trọng nhất trong các hoạt động đầu tưđược tiến hành dưới dạng các dựán ĐT. Theo Điều lệ quản lýđầu tư và xây dựng cơ bản (ban hành kèm theo nghịđịnh 42-CP ngày 16/7/1997 và NĐ số 92-CP sửa đổi Điều lệ quản lýđầu tư và xây dựng cơ bản): Dựán đầu tư (DAĐT) được hiểu là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn ra để tạo mới, mở rộng hoặc tái tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một thời gian xác định đãđịnh trước. Nhiều hoạt động của một dựán đầu tư thường phức tạp và kéo dài, điều đóđòi hỏi phải hình thành một tổ chức hay cá nhân trực tiếp quản lý và chịu trách nhiệm về các hoạt động của dựán, đó chính là chủđầu tư dựán. Cũng theo Điều lệ quản lýđầu tư và xây dựng cơ bản: Chủđầu tư là các cá nhân hoặc tổ chức có tư cách pháp nhân được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư theo đúng qui định của pháp luật hiện hành. Với các dựán đầu tư sử dụng vốn Nhà nước hoặc dựán có cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt của nhà nước thì chủđầu tư là doanh nghiệp nhà nước ( Các Tổng công ty, Công ty ); Cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD tổ chức chính trị xã hội, hoặc các tổ chức quản lý dựán được người có thẩm quyền quyết định đầu tư giao trách nhiệm trực tiếp quản lý sử dụng vốn đầu tư. Với các dựán đầu tư của công ty trách nhiệm hữu hạn, Cty Cổ phần hoặc Hợp tác xã thì chủđầu tư là Cty hoặc hợp tác xã. Với các dựán đầu tư của tư nhân, chủđầu tư là người sở hữu vốn của DN. Với các dựán đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chủđầu tư là các bên hợp doanh (hợp đồng hợp tác kinh doanh); là Hội đồng quản trị (đối với xí nghiệp liên doanh); là tổ chức, cá nhân người nước ngoài bỏ toàn bộ vốn đầu tư (đối với dựán đầu tư có 100% vốn nước ngoài và BOT). Đối với các dựán đầu tư, cho dù lĩnh vực hoạt động và nguồn vốn được sử dụng có khác nhau, đều chỉ có thểđược tiến hành chỉ khi có sự chấp thuận của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, có thể là cá nhân hoặc cơ quan Nhà nước được Chính phủ giao quyền hoặc được uỷ quyền quyết định đầu tư, phụ thuộc vào quy mô tính chất, tầm quan trọng của các dựán. Người có thẩm quyền quyết định đầu tư có thể là: Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố và quận huyện, bộ, sở kế hoạch đầu tư, hội đồng quản trị các Tổng công ty 90-91... b/ Quá trình tiến hành thực hiện một dựán đầu tư bao gồm rất nhiều công việc, và liên quan tới rất nhiều đối tượng, thường kéo dài cho nên việc phân đoạn, xác định các công việc cần phải tiến hành trong từng giai đoạn là hết sức cần thiết. Với một dựán đầu tưđiển hình được phân tích thành ba giai đoạn: giai đoạn chuẩn bịđầu tư, GĐ thực hiện đầu tư và kết thúc dựán đưa dựán vào khai thác, GĐ sử dụng. Các dựán đầu tư có thể phải tiến hành một phần hoặc tất cả các công việc cụ thể, trong từng giai đoạn được nêu ra sau đây: # Thứ nhất là g iai đoạn chuẩn bịđầu tư: - Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư và quy môđầu tư dựán. - Thực hiện công việc tiếp xúc thăm dò thị trường trong hoặc ngoài nước để tìm nguồn cung ứng vật tư, thiết bị hoặc tiêu thụ sản phẩm. Phải xem xét khả năng có thể huy động các nguồn vốn đểđầu tư và lực chọn hình thức đầu tư theo dựán. - Điều tra khảo sát và chọn địa điểm xây dựng cho dựán. - Tiến hành lập dựán đầu tư. Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD - Lập bản thẩm định dựán để quyết định đầu tư. # Thứ hai là giai đoạn thực hiện đầu tư: - Xin giao đất hoặc thuêđất theo quy định của Nhà nước (bao gồm cả mặt nước. mặt biển). - Tổ chức đền bù, giải phóng mặt bằng; chuẩn bị mặt bằng xây dựng. - Tổ chức tuyển chọn tư vấn khảo sát, thiết kế, giám định kĩ thuật và chất lượng công trình. - Thẩm định thiết kế, tổng dự toán công trình. - Tổ chức đấu thầu mua sắm thiết bị, thi công xây lắp. - Xin giấy phép xây dựng công trình (nếu quy định phải có) và giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có). - Ký kết hợp đồng với nhà thầu để thực hiện dựán. - Thi công xây lắp công trình. - Theo dõi kiểm tra việc thực hiện các hoạt động. - Quyết toán vốn đầu tư xây dựng sau khi hoàn thành xây lắp đưa dựán vào khai thác, sử dụng. * Giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa dựán vào khai thác sử dụng: -Bàn giao công trình. -Kết thúc xây dựng. -Bảo hành công trình. -Vận hành dựán. Chúng ta cũng cần phải có sự phân biệt các giai đoạn tiến hành đầu tư theo các dựán trên đây với khái niệm chu trình (hay vòng đời) của dựán. Chu trình dựán bắt đầu từ khi chúng ta nghiên cứu cơ hội đầu tư (nhận dạng dựán) và kéo dài cho đến lúc kết thúc việc vận hành dựán, tiến hành đánh giá sau dựán. 2. Thẩm định dựán đầu tư (TĐDADT). a/ Khái niệm: Thẩm định DAĐT là xem xét một cách khách quan khoa học, toàn diện một dựán đầu tưđể cấp giấy phép đầu tư, ra quyết định đầu tư, quyết định tài trợ. Thực chất của công tác TĐDAĐT là nhằm phân tích làm sáng tỏ một loạt các vấn đề có liên quan tới tính khả thi trong từng quá trình thực hiện dựán: thị trường, công nghệ, kỹ thuật, khả năng tài chính, quản lý thực hiện Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD dựán... từđó tính toán kết quả mà dựán có thể mang lại cho chủđầu tư, cho xã hội để ra quyết định đúng đắn. Trên thực tế, TĐDAĐT chính là việc kiểm tra, phân tích, đánh giá về từng phần và toàn bộ các mặt trong mối liên hệ mật thiết với các thông tin có thể có và các giả thiết về môi trường trong đó dựán sẽ hoạt động. b/ Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thẩm định DAĐT. Bất cứ một DAĐT nào trước khi bước vào giai đoạn thực hiện đầu tư, thậm chí ngay cả khi đang được đầu tư hay đang vận hành đếu được thẩm định không chỉ bởi một mà là nhiều cơ quan tổ chức khác nhau. Tuỳ theo chức năng vị trí của mình mà mỗi cơ quan tổ chức có những quan điểm và mục tiêu thẩm định không giống nhau. Một cách chung nhất chúng ta có ba nhóm khác nhau trực tiếp tiến hành thẩm định các DAĐT, đó là : các nhàđầu tư, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định đầu tư và các nhà tài trợ. Các nhàđầu tư (hay các chủđầu tư) là những người trước hết tiến hành cuộc thẩm định DAĐT. Bên cạnh nhiều mục tiêu đặc biệt khác, các nhàđầu tư có một mục tiêu chủ yếu là làm sao để cóđược một lợi ích tài chính (thu nhập bằng tiền) thích đáng và tối đa cho dựán đầu tư của họ. Vì vậy, độ lớn và tính chắc chắn của các luồng thu nhập tài chính trong tương lai luôn là mối quan tâm hàng đầu của họ, nó xuyên suốt quá trình thẩm định cũng như quá trình thực hiện và khai thác DAĐT. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định đầu tư: là người đại diện cho lợi ích của toàn thể mọi người, toàn xã hội nên phải đứng trên quan điểm tổng thểđể xem xét các DAĐT. Không chỉ là chi phí và lợi ích thuần tuý vật chất, cũng không phải chỉ là một hay một nhóm người mà phải là lợi ích đạt được và chi phí phải bỏ ra đối với toàn xã hội khi DAĐT được thực hiện, phải được cân nhác xem xét trong quá trình thẩm định. Các cơ quan này phải luôn quan tâm tới những đóng góp của dựán cho nền kinh tế, cho xã hội trong sự so sánh với những thứ mà dựán lấy đi của xã hội. Một tập hợp các chỉ tiêu phải xem xét, tính toán như là: mức độ tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách Nhà nước, thúc đẩy các ngành khác phát triển... những tác động tới môi trường, việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và con người... Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD Các nhà tài trợ (như các thể chế tài chính, NSNN, các tổ chức, các cá nhân khác...) khi quyết định tài trợ bao nhiêu, cho ai và tài trợ như thế nào đều phải cân nhắc xem liệu DAĐT đó cóđáp ứng được mục tiêu mong muốn của họ hay không. Cho dùđó là mục tiêu lợi nhuận, kinh tế chính trị hay mục tiêu xã hội, nhân đạo... một quyết định đúng đắn và một kết quả mong đợi luôn phụ thuộc phần lớn vào việc thẩm định các DAĐT. c/ Các mặt thẩm định chủ yếu: *Pháp lý: Việc thẩm định mặt pháp lí nhằm đảm bảo việc tuân thủ luật pháp của chủ dựán và các hoạt động của dựán, tránh việc xâm phạm những quy định, luật lệ do nhà nước ban hành cũng như việc đi ngược lại các định hướng phát triển kinh tế xã hội của nhà nước. Một dựán không chứng minh được một cách đầy đủ tính hợp lí hợp lệ của nó chắc chắn sẽ bị loại bỏ. *Thị trường: Xem xét kiểm tra sự chính xác của những dự tính về khả năng tiêu thụ sản phẩm; tìm hiểu, đánh giá hiện trạng và xu hướng của cung cầu sản phẩm trên thị trường; mức độ cạnh tranh về giá, chất lượng; chiến lược tiêu thụ sản phẩm của dựán, các kế hoạch hỗ trợ và dự phòng..v.v. Đây là một mặt thẩm định cơ bản quyết định tới qui môđầu tư, trang thiết bị máy móc, cơ cấu tổ chức. *Kỹ thuật công nghệ: Xem xét tính khả thi về mặt thiết bị công nghệ, liệu công nghệ, giải pháp kỹ thuật, địa điểm xây dựng như vậy là có phù hợp không; các biện pháp kiểm soát chất thải gây ô nhiễm đãđáp ứng được yêu cầu chưa,.. *Tổ chức quản lý: số lượng chất lượng lao động liệu cóđáp ứng yêu cầu vận hành dựán có hiệu quả, đặc biệt là cơ quan quản lý và kỹ thuật, việc thiết lập hệ thống phòng ban phân xưởng có hợp lý không,.. *Tài chính: Thẩm định tài chính phải xem xét các kế hoạch tài chính (gắn với các kế hoạch đầu tư và sản xuất); đánh giáđược hiệu quả tài chính và các rủi ro có thể cóđi liền với nó. *Kinh tế - xã hội: Đây là khía cạnh mà các cơ quan quản lý Nhà nước rất quan tâm. Thẩm định KT- XH giống như thẩm định khía cạnh tài chính, việc ra quyết định chủ yếu dựa trên sự cân nhắc, so sánh giữa thu nhập và chi phí của dựán. Nhưng một khác biệt rất cơ bản là thẩm định KT-XH phải đứng trên phương diện xã hội chứ không phải cá nhân chủđầu tưđể tính toán các mức chi phí hay thu nhập. Vì vậy các mức tính giá thị trường vốn là nền tảng Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD cho các phân tích tài chính, có thể phải thay đổi, thuế trợ cấp cũng phải điều chỉnh, cũng như phải tính tới các tác động ảnh hưởng (tích cực hoặc tiêu cực) của dựán đối với các đối tượng khác trong nền KT-XH… nhằm thể hiện đầy đủ chi phí và thu nhập mà xã hội phải chi trả và nhận được từ dựán. Sự phân chia các mặt thẩm định ởđây với mục đích là làm cho nhận thức của chúng ta được toàn diện hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là sự phân chia tương đối và trên thực tế cũng không hề có sự thống nhất trong việc chia tách các nội dụng cụ thể vào các mặt thẩm định khác nhau. Hơn thế nữa, giữa các nội dụng các mặt thẩm định luôn tồn tại một mối quan hệ mật thiết quyết định lẫn nhau. Các cán bộ thẩm định không thể chỉ xem xét một hoặc một số mặt một cách phiến diện. Cho dù là chủđầu tư, cơ quan nhà nước, hay nhà tài trợ thì họđều phải xem xét toàn diện mọi khía cạnh của dựán và sự khác nhau chỉ làở chỗ họđặt trọng tâm vào đâu mà thôi. II/ THẨMĐỊNHTÀI CHÍNHDỰÁNĐẦUTƯCỦA NGÂNHÀNGTHƯƠNGMẠI 1. Quy trình thẩm định tài chính dựán của Ngân hàng thương mại. Trước khi phê duyệt và cấp các khoản vay, cán bộ tín dụng cần phải thẩm định kỹ càng về bộ hồ sơ vay vốn mà khách hàng gửi đến theo các trình tự sau: 1.1. Thẩm định tư cách pháp lý Thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng vay vốn là việc xem xét năng lực pháp luật và năng lực hành vi của họ. Mục đích và nội dung của việc thẩm định này nhằm khẳng định điều kiện thứ nhất được quy định tại điều 7 (điều kiện vay vốn) là: "khách hàng vay vốn phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Để tiến hành thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng, Ngân hàng lần lượt xem xét các giấy tờ sau: + Quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập + Đăng ký kinh doanh + Điều lệ Cấp có thẩm quyền nào quyết định thành lập thì cấp đó phê duyệt điều lệ. + Quyết định bổ nhiệm tổng giám đốc, giám đốc + Quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng + Biên bản giao vốn, biên bản góp vốn Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD Kết thúc bước thẩm định này, cán bộ thẩm định phải rút ta được nhận xét về tư cách pháp lý và người đại diện hợp pháp của khách hàng. Sau đó cán bộ tín dụng tiếp tục xét đến khả năng tài chính của khách hàng. 1.2. Thẩm định khả năng tài chính của khách hàng. Xác định khả năng tài chính của khách hàng là một khâu quan trọng trong quy trình thẩm định liên quan trực tiếp đến khả năng thu hồi vốn đầu tư sau này. Vì vậy ngoài việc thẩm định khả năng trả nợ của chính dựán, phương án vay vốn, cán bộ thẩm định còn phải xem xét khả năng tài chính của khách hàng ở thời gian trước và vào thời điểm đề nghị vay vốn. Để thực hiện được bước này, cán bộ tín dụng cần phải dựa vào những tài liệu sau: - Báo cáo tài chính thời điểm gần nhất và 2 năm liền kề với thời điểm vay vốn. - Báo cáo hàng hoá tồn kho. - Báo cáo tình hình tài chính của tổng công ty. Cán bộ thẩm định có thể sử dụng nhiều phương pháp nhưng chủ yếu là phương pháp so sánh về số tuyệt đối và chỉ số tương đối đểđưa ra các kết luận từng phần và toàn diện về khả năng tài chính của khách hàng nhằm giúp cho việc quyết định cho vay hay không cho vay. Chỉ tiêu thường dùng là xem xét nguồn vốn chủ sở hữu, hàng tồn kho doanh thu, phân tích các hệ số tài chính... Kết thúc bước thẩm định này, cán bộ thẩm định phải nhận xét được khả năng tài chính của khách hàng đến thời điểm vay vốn. 1.3. Thẩm định dựán đề nghị vay vốn lưu động. 1.3.1 Hồ sơ Cán bộ thẩm định căn cứ vào bộ hồ sơ do khách hàng có nhu cầu vay vốn gửi đến NH để phân tích vàđưa ra nhận xét về nhu cầu vay vốn ngắn hạn của khách hàng. - Nhận xét tính hợp pháp, hợp lệ về kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng nếu khách hàng xin duyệt hạn mức tín dụng cho cả năm thì cơ sởđể tính toán nhu cầu vốn vay là kế hoạch sản xuất kinh doanh đãđược cấp có thẩm quyền phê duyệt. Chuyên đề tốt nghiệpKhoa Ngân Hàng Tài Chính-ĐHKTQD - Nhận xét về các hợp đồng giữa khách hàng vay vốn với người cung ứng nguyên, nhiên vật liệu... 1.3.2. Xác định khả năng thực hiện dựán, nhu cầu vốn vay và khả năng trả nợ. Qua thẩm định bộ hồ sơ và tình hình thực tế khách hàng, cán bộ thẩm định đưa ra các nhận xét sau: - Tính hợp pháp hay không hợp pháp của doanh nghiệp dựa trên cơ sở năng lực sản xuất kinh doanh, công nghệ và công suất máy móc thiết bị thực tế. - Thực tế cung cấp nguyên, nhiên, vật liệu và các yếu tốđầu vào - Thực tế tiêu thụ sản phẩm và các nhân tốảnh hưởng - Xác định vốn của khách hàng tham gia vào sản xuất kinh doanh - Tính hợp lý của vòng quay vốn lưu động kỳ kế hoạch (so sánh với kỳ trước). - Xác định được tổng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của khách hàng từđó xác định nhu cầu vốn vay. Tuy nhiên cần phải so sánh nhu cầu vốn vay với tài sản làm đảm bảo nợ vay và khả năng nguồn vốn của khách hàng để quyết định mức vay cho phù hợp với quy định hiện hành của Ngân hàng. Kết thúc bước thẩm định kỳ này, cán bộ tín dụng phải rút ra nhận xét vàđưa ra đề xuất đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong phần nhận xét, cán bộ thẩm định phải tóm tắt lại toàn bộ những nội dung chính về nhu cầu vay vốn, các chính sách, chếđộ của Nhà nước có liên quan. Phần đề xuất nói rõđồng ý hay không đồng ý cho vay, với mức cho vay, thời hạn cho vay và biện pháp bảo đảm tiền vay cũng như các đề xuất có liên quan.
Luận văn liên quan