Đề tài Nâng cao Chất lượng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại, cụ thể là Ngân hàng Công thương Hưng Yên

Cùng với sự ra đời và phát triển của thị trường Tài chính ở nước ta, các Ngân hàng thương mại (NHTM) đang từng bước thể hiện vai trò không thể thiếu của mình trong nền kinh tế. Sự lựa chọn đầu tiên của các tổ chức cá nhân khi thiếu vốn là tìm tới các NHTM, vì vậy mà hoạt động của các NHTM có ảnh hưởng rất to lớn tới hoạt động cũng như sự phát triển của các tổ chức kinh tế khác trong nền kinh tế. Một thành phần kinh tế cơ bản trọng yếu trong nền kinh tế nữa đó là Doanh nghiệp, cụ thể là Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Đặc điểm nổi bật của các Doanh nghiệp này đó là sự tích luỹ các yếu tố sản xuất rất phù hợp với tình hình nước ta hiện nay. Có thể nói, hai tổ chức kinh tế này đang là hai cực lam châm của nền kinh tế Việt Nam. Với đặc điểm bẩm sinh của mình, các DNVVN không thể không quan hệ vay vốn với các NHTM. Ngược lại, nó cũng là Khách hàng thường xuyên của các NHTM. Như vậy là mối quan hệ giữa hai thành phần kinh tế này là rất đáng quan tâm. Ở đây là quan hệ tín dụng, quan hệ cung cấp và tiếp nhận vốn kinh doanh. Chất lượng tín dụng đối với các DNVVN từ trước tới nay luôn được các NHTM quan tâm hàng đầu. Trước thực tế đó, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Hưng Yên, ngoài việc học hỏi thực tế về các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng, em còn chú tâm nghiên cứu về lĩnh vực“ Nâng cao Chất lượng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại, cụ thể là Ngân hàng Công thương Hưng Yên.”

docx60 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1536 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao Chất lượng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại, cụ thể là Ngân hàng Công thương Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.. 3 1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại 3 1.2. Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại.. 12 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH HƯNG YÊN.. 27 2.1. Khái quát về Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên.. 27 2.2. Thực trạng chất tín dụng với DNVVN của Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên.. 31 Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HƯNG YÊN. 43 3.1. Định hướng phát triển và quan điểm nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên.... 43 3.2. Giải pháp tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên... 43 3.3. Một số kiến nghị nhằn nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ....... 54 KẾT LUẬN... 59 LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự ra đời và phát triển của thị trường Tài chính ở nước ta, các Ngân hàng thương mại (NHTM) đang từng bước thể hiện vai trò không thể thiếu của mình trong nền kinh tế. Sự lựa chọn đầu tiên của các tổ chức cá nhân khi thiếu vốn là tìm tới các NHTM, vì vậy mà hoạt động của các NHTM có ảnh hưởng rất to lớn tới hoạt động cũng như sự phát triển của các tổ chức kinh tế khác trong nền kinh tế. Một thành phần kinh tế cơ bản trọng yếu trong nền kinh tế nữa đó là Doanh nghiệp, cụ thể là Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Đặc điểm nổi bật của các Doanh nghiệp này đó là sự tích luỹ các yếu tố sản xuất rất phù hợp với tình hình nước ta hiện nay. Có thể nói, hai tổ chức kinh tế này đang là hai cực lam châm của nền kinh tế Việt Nam. Với đặc điểm bẩm sinh của mình, các DNVVN không thể không quan hệ vay vốn với các NHTM. Ngược lại, nó cũng là Khách hàng thường xuyên của các NHTM. Như vậy là mối quan hệ giữa hai thành phần kinh tế này là rất đáng quan tâm. Ở đây là quan hệ tín dụng, quan hệ cung cấp và tiếp nhận vốn kinh doanh. Chất lượng tín dụng đối với các DNVVN từ trước tới nay luôn được các NHTM quan tâm hàng đầu. Trước thực tế đó, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Hưng Yên, ngoài việc học hỏi thực tế về các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng, em còn chú tâm nghiên cứu về lĩnh vực“ Nâng cao Chất lượng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại, cụ thể là Ngân hàng Công thương Hưng Yên.” Bài viết gồm có 3 chương: Chương I: Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên. Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên Do thời gian thực tập tại Ngân hàng và trình độ của sinh viên còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự hướng dẫn, góp ý của các thầy cô. SV: ĐOÀN THANH THUỶ CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là gi? Ngân hàng thương mại (NHTM) là một Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, hoạt động chính của Doanh nghiệp này là nhận tiền gửi và cho vay nhằm mục đích sinh lời. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn có một số nghiệp vụ nữa là kinh doanh chứng khoán, nghiệp vụ bảo lãnh, uỷ thác đầu tư Ngân hàng là một tổ chức quan trọng trong nền kinh tế, Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống Tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – Xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là thủ quỹ trong toàn xã hội. Thu nhập từ Ngân hàng là thu nhập quan trọng trong nhiều gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu với các Doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh). Đối với các Doanh nghiệp, Ngân hàng thường là tổ chức cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua bán hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi Doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử.v.v và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường tới Ngân hàng để được nhận lời tư vấn. Các khoản tín dụng của Ngân hàng cho chính phủ (thông qua chứng khoán Chính phủ) là nguồn Tài chính quan trọng để đầu tư, phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là các chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Do đó, cần phải nghiên cứu và hiểu một cách cặn kẽ về loại hình tổ chức này để có thể vận hành và quản lý một cách có hiệu quả. Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các Ngân hàng có thể được định nghĩa theo chức năng, các dịch vụ cụ thể hoặc vai trò mà chúng có thể thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi, thực tế có rất nhiều các Tổ chức Tài chính – bao gồm cả các Công ty chứng khoán, các Công ty môi giới chứng khoán, quỹ hỗ trợ và các công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư quỹ hỗ trợ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của một ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một Doanh nghiệp đặc biệt có rất nhiều chức năng kinh doanh về tiền tệ. Những chức năng đó được thể hiện cụ thể qua các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. NHTM có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân và nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển cao, hoạt động của NHTM càng đi vào tận ngõ ngách của đời sống kinh tế đất nước. Hoạt động kinh doanh của NHTM được chia làm hai loại có tính khác nhau: a) Hoạt động nghiệp vụ (hoạt động kinh doanh tiền tệ). Chữ “nghiệp vụ” có nghĩa là nghề nghiệp, nghề sống bẩm sinh vốn có của ngành ngân hàng (nghề buôn tiền, kinh doanh tiền tệ), mà nếu thiếu nó thì Ngân hàng không còn là Ngân hàng nữa. Những hoạt động để tìm kiếm nguồn vốn hoặc cung ứng vốn cho khách hàng gọi là hoạt động kinh doanh tiền tệ và gọi tắt là hoạt động nua bán vốn tiền tệ giữa một bên là Ngân hàng và một bên là Khách hàng là một đặc trưng cơ bản của nghiệp vụ ngân hàng. b) Dịch vụ. Đây là một hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan hệ giữa Khách hàng hoặc tài sản mà khách hàng sở hữu với người cung cấp mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu. Sản phẩm của dịch vụ này có thể trong phạm vi hoặc vượt quá phạm vi của sản phẩm vật chất do Ngân hàng cung cấp cho khách hàng của mình. Hoạt động của Ngân hàng mang tính cạnh tranh cao độ. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật vận động tự nhiên, không lệ thuộc vào nhận thức hoặc chọn lựa chủ quan của con người. Xuất phát từ sự mâu thuẫn lợi ích giữa các Doanh nghiệp, cạnh tranh là động lực của sự phát triển, mục đích của cạnh tranh là giữa vững thị phần của mình, mở rộng thị phần sang thị trường tiềm năng, chiếm lĩnh thị phần của đối thủ cạnh tranh. Mục tiêu của kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận, an toàn trong kinh doanh, không ngừng gia tăng doanh thu, nên cạnh tranh chính là một trong các chìa khoá của mỗi Doanh nghiệp để đạt được tham vọng trong thương trường,. Ngày nay, sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ, sản xuất hàng hoá phát triển với quy mô rộng lớn làm cho cạnh tranh càng quyết liệt và sâu rộng - Cạnh tranh chính là yếu tố nội tại của quá trình kinh doanh và tiếp xúc với cạnh tranh là điều không thể tránh. Đối với hoạt động của NHTM, sự cạnh tranh gay gắt đã bắt đầu trên thế giới từ nhữnq năm 70 của thế kỷ 20 do các yếu tố cơ bản sau: 1.Công nghệ ngân hàng có xu hướng quốc tế hoá; 2. Các thị trường vốn mới được mở đã làm biến đổi hệ thống tiền gửi truyền thống; 3. Công nghệ ngân hàng tại nhiều nước đã bắt đầu đa dạng hoá các dịch vụ; 4. Ngành công nghiệp ngân hàng đã tìm mọi cách phát triển các tổ chức phi ngân hàng, tạo điều kiện hoạt động trong lĩnh vực chuyên biệt; v.v Nghiệp vụ ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc mà ngân hàng thường làm trong khuôn khôn khổ nghề nghiệp của họ. tuỳ điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi nước, các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM bao gồm ba lĩnh vực: nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có và nghiệp vụ môi giới trung gian. Đó là các nghiệp vụ nằm trong bảng tổng kết tài sản. Ngoài ra còn có các nghiệp vụ khác không được phản ánh lên bảng tổng kết tài sản như nghiệp vụ bảo lãnh, nghiệp vụ cho thuê két sắt, tư vấn Thị trường các sản phẩm tài chính thay đổi nhanh chóng gây ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý và có thể dẫn đến các rủi ro mới có tính hệ thống. Vì đó là các trách nhiệm không biết trước được nên nó được định nghĩa như là sản phẩm ngoài bảng tổng kết tài sản và có thể các trách nhiệm này nằm ngoài phạm vi các nguyên tắc truyền thống về các khoản vốn hỗ trợ cần thiết. Các nghiệp vụ của NHTM có quan hệ chặt chẽ, hộ trợ lẫn nhau để hình thành hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế. Khi NHTM đi vào hoạt động ổn định, các nghiệp vụ được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Dưới đây là hai hoạt động (nghiệp vụ) cơ bản của NHTM. 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại Nghiệp vụ huy đông vốn của Ngân hàng thương mại được gọi là nghiệp vụ nợ, những khoản mục nguồn vốn do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng thương mại sẽ nằm bên tài sản nợ. Đây được coi là nghiệp vụ khởi đầu, tạo nền móng cho mọi hoạt động tiếp theo của Ngân hàng thương mại. Về sau, khi Ngân hàng đã hình thành vốn cố định, các nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động. Huy động các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. Ở các nước công nghiệp, với sự phát triển nhanh chóng của thị trường Tài chính, đã có nhiều tài sản có mức lợi tức ổn định và tính thanh khoản cao, tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt động của NHTM trở thành cạnh tranh khốc liệt, trước mắt các NHTM ở các nước phát triển luôn luôn xuất hiện một vấn đề, đó là làm thế nào để có đủ vốn đầu tư giữa môi trường đầu tư cạnh tranh đầy kịch tính. Ngân hàng thương mại phải cạnh tranh với các Ngân hàng khác, với các tổ chức tài chính khác, với các nghiệp vụ thị trường trực tiếp và với bất cứ một tổ chức nào khác muốn thu hút một khối lượng vốn nào đó. Tài sản nợ của NHTM tập trung vào năm nhóm phổ biến là: 1)Vốn pháp định hay vốn điều lệ; 2)Tiền gửi không kỳ hạn; 3)Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm; 4)Các khoản vay trên thị trường tiền tệ; 5)Các khoản vay từ các Ngân hàng khác hoặc từ Ngân hàng Trung ương.Tài sản nợ của Ngân hàng thương mại là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nói theo ngôn ngữ thị trường, tài sản nợ diễn tả những khoản mà NHTM mắc nợ thị trường, nghĩa là bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho nó, hay nó đi vay các đối tượng khách trong nền kinh tế Ngân hàng trung ương, các ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp, nhân dân Đứng bên tài sản nợ, NHTM là người đi vay, là con nợ, còn các đối tượng kia là người cho vay, là chủ nợ của NHTM. Như vậy, thuật ngữ “tài sản nợ” phản ánh rằng đó là tài sản của người khác mà ngân hàng vay.Tài sản nợ bao gồm: Vốn pháp định, vốn điều lệ. Vốn pháp định (hay còn gọi là vốn điều lệ) là số vốn đầu tư ban đầu khi thành lập ngân hàng và được ghi rõ trong điều lệ của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động, cổ đông, ngân sách cấp, lợi nhuận bổ sung Vốn này chủ yếu dùng để mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị cho hoạt động ngân hàng, ngoài ra còn được dùng để đóng góp vốn liên doanh, cho vay, mua cổ phần của các công ty khác. Không được dùng vốn điều lệ để chia cổ tức, lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Như vậy, đến khi ngân hàng hoạt động, vốn điều lệ có thể đã nằm dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, xe cộ, trang thiết bị, dự trữ hay lý quỹ tại NHTW, hoặc đã đầu tư vào một thương vụ nào đó. Ngoài vốn điều lệ, NHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng (đây là các quỹ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng), quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo tồn, quỹ phúc lợi,.v.v Tiếp theo là các nguồn vay, chủ yếu bao gồm: Vay của Ngân hàng trung ương (NHTW). Để chuẩn bị cho các hoạt động của mình như các hoạt động thanh toán bù trừ, hoạt động chuyển nhượng lẫn nhau, kể cả quy định dự trữ bắt buộc do NHTW áp đặt, tất cả các NHTM đều phải lý gửi những khoản tiền mặt nhất định tại kho của NHTW, khoản dự trữ này không sinh lời. Trong quá trình hoạt động của mình, có lúc các NHTM gặp những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt tiền mặt. Đây là điều thường xuyên xảy ra đối với NHTM ở bất kỳ nước nào. Trong khi có một số ngân hàng thiếu hụt dự trữ, thì cũng có một số các NHTM khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của NHTW, các NHTM điện thoại hoặc liên lạc qua màn hình computer vay lẫn nhau dự trữ trong một ngày là chuyện bình thường. Thủ tục vay được tiến hành qua viễn ký (fax) hoặc điện tín. Trong vòng vài phút sau, ngân hàng thừa dự trữ trong ngày hôm đó sẽ viết séc hoặc gửi điện tín tới chi nhánh của NHTW tại địa phương, yêu cầu chuyển một phần dự trữ thừa từ ngân hàng mình qua dự trữ của ngân hàng xin vay. Thế là ngân hàng xin vay trở lên đủ dự trữ theo yêu cầu của NHTW. Việc vay qua vay lại như vậy vẫn diễn ra hàng ngày trong hệ thống NHTM. Nó hình thành một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy nhiên, khoản nợ này thường rất ngắn, không quá một tuần, và thường chỉ trong một vài ngày, vì mỗi ngân hàng đều ý thức được không thể lạm dụng kéo dài tình trạng này. Hiện nay ở Việt Nam chưa phát triển khoản vay ngắn hạn dự trữ tại NHTW. Ở nước ta còn có “vốn tiếp nhận:, là những nguồn vốn mà NHTM nhận uỷ thác từ các tổ chức trong hoặc ngoài nước, từ ngân sách nhà nước để cho vay trung và dài hạn thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước, để thực hiện những chương trình và dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh, cải tạo môi trường, môi sinh. Vay trên thị trường tiền tệ. Thị trường tiền tệ theo mô hình của các nước phát triển bao gồm thị trường mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn, thị trường liên ngân hàng, thị trường hối đoái. Ta chỉ đề cập khái quát thị trường tiền tệ trong mối liên quan với việc vay mượn của các NHTM trên thị trường này. Hoạt động trên thị trường này hỗ trợ tích cực cho hoạt động của các NHTM, bổ sung kịp thời cho nhu cầu vốn thông qua việc điều hoà các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Thị trường tiền tệ góp phần sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đã có tại các Ngân hàng, làm cho các nguồn vốn phong phú, chủ động nằm trong tầm tay này hoà trộn, lưu thông, khơi nguồn cả dòng chảy cho tất cả các nguồn vốn vào mạng lưới đầu tư phát triển nền kinh tế đất nước. Thị trường tiền tệ giúp cho các NHTM tìm được nguồn vốn vay, đồng thời giúp cho chúng khi dư thanh khoản, có được cơ hội sinh lời. Vay từ công ty mẹ. Ở các nước phát triển, mỗi Công ty hoặc Tập đoàn kinh doanh có thể là chủ của một hay một số NHTM. Thay vì việc phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ để vay tiền từ thị trường tiền tệ, các Công ty mẹ có thể thay thế nó dưới hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hoặc thương phiếu rồi chuyển vốn đã huy động được này về Ngân hàng này hoạt động. Việc này sẽ hạn chế được những khó khăn mà các NHTM thường mắc phải khi tiến hành huy động vốn trên thị trường này. Ngoài các loại vay đã nên trên, một NHTM để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của mình, còn tiến hành vay vốn của các Ngân hàng khác, giữa các NHTM và các tổ chức tín dụng có thể cho vay lẫn nhau theo nguyên tắc: Các Ngân hàng phải hoạt động hợp pháp; Nguyên tắc thực hiện việc vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng; Nguyên tắc vốn vay phải có được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hay xin vay của NHTW. Các nghiệp vụ ký thác. Muốn làm Ngân hàng cần có vốn riêng, tuy nhiên số vốn riêng này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng số tiền mà Ngân hàng đã cho vay. Số vốn riêng của Ngân hàng thường chỉ để mua sắm, trang bị trụ sở. Trong thực tế, số tiền mà Ngân hàng cho vay có nguồn gốc từ tiền gửi của Khách hàng. Do đó, huy động vốn là hoạt động chủ yếu và thường xuyên của NHTM, là mối quan tâm chính của các Ngân hàng này. Có thể nói, Ngân hàng là một xí nghiệp kinh doanh đồng vốn, Ngân hàng vừa là người cung cấp đồng vốn, đồng thời cũng là người tiêu thụ đồng vốn của Khách hàng. Tất cả những hoạt động mua bán này thường thông qua một số công cụ và nghiệp vụ Ngân hàng. Chính nhờ các nghiệp vụ đa dạng mà Ngân hàng cung cấp mà nghiệp vụ ký thác ra đời. Thông thường, người ta xem ký thác là các số tiền do Khách hàng gửi vào tài khoản của họ tại Ngân hàng. Tuy nhiên, đối với người gửi tiền thì ý nghĩa ký thác không dừng lại ở đó, nó không hoàn toàn không như danh từ đã sử dụng. Nó phụ thuộc vào mục đích của người gửi tiền. Các nguồn ký thác ngày càng phong phú, phức tạp. Vì thế không thể phân định một cách chính xác từng nhóm ký thác riêng biệt. Song về mặt kỹ thuật Ngân hàng, các khoản ký thác có thể phân theo tiêu chuẩn sau: -Tiền gửi không kỳ hạn. Đây là loại ký thác hoàn toàn theo nguyên tắc khả dụng, nghĩa là người gửi có quyền rút tiền bất kỳ lúc nào họ muốn. Ngân hàng sẽ sắp xếp khoản tiền này vào tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là khoản tiền gửi có thời hạn không xác định. Người gửi tiền vừa mới gửi tiền vào sáng này, nến cần anh ta có thể rút vào ngay chiều hôm đó, nếu không có nhu cầu sử dụng, anh ta có thể để đó mười bữa, nửa tháng hoặc một năm sau mới rút ra. Tiền gửi không kỳ hạn có thể là tiền gửi thanh toán hoặc thuần tuý chỉ là khoản gửi tiết kiệm, không có nhu cầu chi trả nào. -Tiền gửi có kỳ hạn.: Đây là loại tiền gửi được uỷ thác vào Ngân hàng kèm theo thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hành và Ngân hàng. Về nguyên tắc, Khách hàng gửi tiền chỉ được rút tiền ra khi đến hạn đã thoả thuận hoặc nếu muốn rút trước thì Khách hàng sẽ phải chịu một số thiệt thòi nhất định như đã ghi trong hợp đồng tín dụng như là phải chịu mức lãi suất thấp, hay phải báo trước vài ngày..., Khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán), tiền gửi có kỳ hạn (tiền gửi định kỳ) là tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân, vì vậy, mục đích gửi tiền tới Ngân hàng là nhằm kiếm lợi nhận. 1.1.2.2.Hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại Huy động vốn được rồi, NHTM phải làm thế nào để hiệu quả hoá những nguồn tái sản này. Hầu như tất cả các khoản mục trên tài sản nợ của Ngân hàng đều là vốn vay, nghĩa là Ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến đúng giờ. Do đó để khỏi bị thiệt hại và có thể thu lợi thì Ngân hàng phải cho vay hay đầu tư ngay tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lời. Từ lãi thu được, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho số vốn đã huy động được, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Nói cách khác, nghiệp vụ có của Ngân hàng là những nghiệp vụ thực hiện sử dụng những khoản vốn đã huy động được nhằm mục đích sinh lợi. Nghiệp vụ có của Ngân hàng bao gồm nghiệp vụ dự trữ tiền mặt, đầu tư vào chứng khoán và nghiệp vụ cho vay. - Nghiệp vụ dự trữ tiền mặt. Là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của Khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn bằng tiền mặt để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay th
Luận văn liên quan