Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước của Đảng ta. Đặc biệt là từ đại hội lần thứ VI của Đảng được ghi nhận như một bước ngoặt trong quá trình phát triển của đất nước. Với sự chuyển đổi cơ chế đó thì việc phát triển giao lưu thương mại giữa các nước như là một điêù tất yếu. Từ khi nước ta chuyển đổi cơ chế thì vai trò của hoạt đông xuất nhập khẩu đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển đất nước. Cùng với những thuận lợi khi đất nước mở cửa thì các doanh nghiệp trong nước nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng đang gặp một áp lực rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh, sự suy kém về vốn, kinh nghiệm, công nhân viên cũng như trang thiết bị cơ sở đã tạo nên một khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, đẩy mạnh xuất khẩu như là một xu hướng tất yếu để thúc đẩy đất nước phát triển. Để hoạt đông xuất khẩu đạt hiệu quả cao thì một bước rất quan trọng và đầu tiên đó là công tác tạo nguồn hàng phải được thực hiện tốt.
Trong quá trình thực tập tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà (HAFOREXIM), qua một thời gian tìm hiểu, học hỏi cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ công nhân viên trong công ty, cùng với sự hướng dẫn và định hướng của thầy giáo và tự bản thân thấy được sự quan trọng của công tác tạo nguồn hàng nên tôi đã chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả công tác tạo nguồn hàng tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà” làm luận văn của mình.
Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về công tác tạo nguồn hàng .
Chương II: Thực trạng hoạt động tạo nguông hàng cho xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tạo nguồn hàng tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà.
83 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3406 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả công tác tạo nguồn hàng tại Công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước của Đảng ta. Đặc biệt là từ đại hội lần thứ VI của Đảng được ghi nhận như một bước ngoặt trong quá trình phát triển của đất nước. Với sự chuyển đổi cơ chế đó thì việc phát triển giao lưu thương mại giữa các nước như là một điêù tất yếu. Từ khi nước ta chuyển đổi cơ chế thì vai trò của hoạt đông xuất nhập khẩu đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển đất nước. Cùng với những thuận lợi khi đất nước mở cửa thì các doanh nghiệp trong nước nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng đang gặp một áp lực rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh, sự suy kém về vốn, kinh nghiệm, công nhân viên cũng như trang thiết bị cơ sở đã tạo nên một khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, đẩy mạnh xuất khẩu như là một xu hướng tất yếu để thúc đẩy đất nước phát triển. Để hoạt đông xuất khẩu đạt hiệu quả cao thì một bước rất quan trọng và đầu tiên đó là công tác tạo nguồn hàng phải được thực hiện tốt.
Trong quá trình thực tập tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà (HAFOREXIM), qua một thời gian tìm hiểu, học hỏi cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ công nhân viên trong công ty, cùng với sự hướng dẫn và định hướng của thầy giáo và tự bản thân thấy được sự quan trọng của công tác tạo nguồn hàng nên tôi đã chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả công tác tạo nguồn hàng tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà” làm luận văn của mình.
Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về công tác tạo nguồn hàng .
Chương II: Thực trạng hoạt động tạo nguông hàng cho xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tạo nguồn hàng tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC TẠO NGUỒN HÀNG.
I,VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU NÓI CHUNG VÀ CÔNG TÁC TẠO NGUỒN HÀNG NÓI RIÊNG TRONG DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU.
1.Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu.
Kinh doanh thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước, thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và hàng hoá giữa các nước.
Các quốc gia cũng như các cá nhân không thể hoạt động độc lập mà có thể đầy đủ các yếu tố kinh tế. Mối quan hệ buôn bán quốc tế có tính chất sống còn. Vì buôn bán quốc tế cho phép một quốc gia có thể tiêu dùng nhiều mặt hàng nhiều hơn mức mà nước đó có thể làm ra. Nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp thì không thể thực hiện được điều đó. Tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ trên thế giới đều tìm kiếm cho mình những thị trường rộng lớn, nhằm tiêu thụ những sản phẩm mà mình làm ra. Hoạt động xuất nhập khẩu nhằm khai thác những mặt mạnh của nền kinh tế, cũng như để nâng cao khoa học kỹ thuật, tạo ra năng lực sản xuất cho đất nước.
Chúng ta có thể thấy rằng nếu chuyên môn hoá và các sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên.
Xuất nhập khẩu là cần thiết cho việc chuyên môn hoá sâu rộng để có được hiệu quả kinh tế cao hơn trong nhiều ngành.
Chuyên môn hoá với quy mô lớn sẽ làm cho chi phí sản xuất giảm trên mỗi đơn vị hàng hoá, hiệu quả kinh doanh theo quy mô sẽ được thể hiện ở từng nước. Trong hoàn cảnh như vậy với đất nước ta, cần phải không ngừng mở rộng phân công lao động quốc tế, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu đó là những đòi hỏi khách quan.
Kinh doanh thương mại quốc tế cũng là một phần trong tái sản xuất xã hội nên nó đóng vai trò:
-Tạo nguồn vốn và kỹ thuật từ bên ngoài cho quá trình sản xuất trong nước.
-Từ hoạt động xuất nhập khẩu để học hỏi về kỹ thuật cũng như kinh nghiệm từ nước ngoài.
-Thông qua hoạt hoạt động xuất nhập khẩu nhằm phát huy và sử dụng tốt hơn nguồn lao động cũng như tăng nguồn thu cho nền kinh tế.
-Mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại để nâng cao uy tín nước ta trên trường quốc tế. Góp phần vào thực hiện đường lối đối ngoại của nhà nước.
2.Vai trò của công tác tạo nguồn hàng trong xuất khẩu .
2.1.Khái niệm về nguồn hàng cho xuất khẩu .
Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện cho xuất khẩu
Như vậy nguồn hàng cho xuất khẩu không thể là nguồn hàng chung chung mà phải gắn với một địa danh cụ thể.
Mặt khác nguồn hàng cho xuất khẩu phải đảm bảo những yêu cầu chất lượng quốc tế. Do vậy không phải toàn bộ khối lượng hàng hoá của một đơn vị, một địa phương, một vùng đều là nguồn hàng cho xuất khẩu mà chỉ có phần hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu mới là nguồn hàng cho xuất khẩu.
2.2.Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu .
Là toàn bộ những hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh cho tới nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu, có thể chia ra làm hai hoạt động chính:
Loại những hoạt động sản xuất và tiếp tục quá trình sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì đây là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất.
Loại những hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu, thường cho các tổ chức ngoại thương làm những chức năng trung gian cho xuất khẩu hàng hoá.
Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp sản xuất làm công tác xuất khẩu trực tiếp với nước ngoài, không qua các tổ chức trung gian. Do vậy trong công tác tạo nguồn hàng họ phải đảm nhận các khâu đã nêu ở trên.
Như vậy, để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể được gom hoặc có thể được ký kết hợp đồng mua với các chân hàng, đơn vị sản xuất. Tuỳ theo đặc điểm của từng ngành hàng, người ta có thể tự tổ chức sản xuất hoặc ký kết hợp đồng thu mua, ký kết hợp đồng với hướng dẫn kỹ thuật. Xu hướng giảm xuất khẩu sản phẩm thô, nhiều doanh nghiệp sản xuất hoặc ngoại thương tổ chức các bộ phận sơ chế hoặc chế biến nhằm tăng giá trị hàng xuất khẩu .
2.3.Thu mua tạo nguồn hàng:
Là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Như trên, thu mua tạo nguồn hàng là một loại hình hẹp hơn hoạt động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Đây là một hệ thống các nghiệp vụ mà tổ chức ngoại thương hoặc các tổ chức trung gian kinh doanh hàng xuất khẩu thực hiện bao gồm các khâu sau: Nghiên cưú thị trường trong và ngoài nước, xác định mặt hàng dự kiến kinh doanh, giao dịch ký kết hợp đồng thu mua hoặc mua gom các mặt hàng trôi nổi trên thị trường, xúc tiến khai thác nguồn hàng, thanh toán tiền, tiếp nhận, bảo quản, xuất kho giao hàng, ... Phần lớn các hoạt động này làm tăng chi phí lưu thông, mà không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hoá. Do vậy các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đơn giản hoá các nghiệp vụ nhằm làm giảm chi phí lưu thông, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2.4.Vai trò của công tác tạo nguồn hàng trong kinh doanh.
2.4.1.Vị trí của công tác tạo nguồn:
Trong kinh doanh, tạo nguồn hàng là khâu hoạt động nghiệp vụ kinh doanh đầu tiên, mở đầu cho hoạt động lưu thông hàng hoá (T-H). Mua hàng là hoạt động nghiệp vụ cơ bản của của doanh nghiệp xuất khẩu. Nếu không mua được hàng hoá hoặc mua không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh thì doanh nghiệp không có hàng hoá để bán. Nếu doanh nghiệp mua phải hàng xấu, hàng giả, chất lượng kém hoặc không mua đúng số lượng, thời gian yêu cầu, doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng hàng hoá, vốn lưu động không lưu chuyển được, doanh nghiệp sẽ không bù đắp được chi phí, sẽ không có lãi,... Điều này chỉ rõ vị trí quan trọng của công tác tạo nguồn hàng, mua hàng có ảnh hưởng đến nghiệp vụ kinh doanh khác và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.4.2.Tác dụng của công tác tạo nguồn hàng.
Thứ nhất: Trong nền kinh tế công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu , tạo ra một nhu cầu mới về lao động, về vật tư, tiền vốn. Và như vậy tạo ra nhiều công ăn, việc làm cho người lao động, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, góp phần thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng tham gia vào phân công lao động quốc tế, tiết kiệm các nguồn lực trong nước trên cơ sở kinh doanh có hiệu quả.
Thứ hai: Nguồn hàng là một điều kiện của hoạt động kinh doanh, nếu không có nguồn hàng, không thể tiến hành kinh doanh được. Muốn vậy phải đáp ứng được các yêu cầu: Phù hợp với yêu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, quy cách, cỡ loai, mầu sắc... và phù hợp về thời gian và đúng với yêu cầu. Có như vậy nguồn hàng mới đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiếp theo và có đủ hàng hoá đảm bảo cung ứng cho khách hàng đầy đủ, kịp thời.
Thứ ba: Nguồn hàng và tạo nguồn hàng phù hợp với yêu cầu của khác hàng giúp cho hoạt động kinh doanh tiến hành thuận lợi, kịp thời, thúc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp bán hàng nhanh đồng thời đảm bảo uy tín với khách hàng làm cho việc cung ứng hàng diễn ra một cách liên tục, ổn định tránh đứt đoạn.
Thứ tư: Nguồn hàng và công tác tạo nguồn hàng tốt giúp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hạn chế bớt được tình trạng thừa thiếu, hàng hoá ứ đọng chậm luân chuyển, hàng hoá kém phẩm chất không thể bán được ... vừa gây chậm trễ cho khâu lưu thông.
Thứ năm: Nguồn hàng và công tác tạo nguồn hàng tốt còn có tác dụng lớn cho công tác tài chính của doanh nghiệp thuận lợi, thu hồi được vốn nhanh, có tiền bù đắp chi phí kinh doanh, có lợi nhuận để phát triển và mở rộng kinh doanh, tăng thu nhập cho người lao động và thực hiện đầy đủ đối nhà nước và các mặt khác của doanh nghiệp.
Công tác tạo nguồn hàng tốt có tác dụng nhiều mặt với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như trên đã phân tích, hơn thế nữa nó còn đảm bảo thị trường ổn định cho doanh nghiệp, nó thúc đẩy sản xuất và nhập khẩu tăng cường khả năng mở rộng thị trường, ổn định điều kiện cung ứng hàng hoá, ổn định điều kiện cung cấp các nguồn hàng, tạo điều kiện ổn định nguồn hàng với các đơn vị tiêu dùng.
II,PHÂN LOẠI NGUỒN HÀNG VÀ CÁC HÌNH THỨC TẠO NGUỒN HÀNG.
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có hai khâu liên hệ với nhau rất chặt chẽ đó là:
-Thu mua, huy động hàng hoá xuất khẩu từ các đơn vị trong nước.
-Ký kết hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài.
Mà trong đó công việc thu mua tạo nguồn hàng là tiên đề đầu tiên của hoạt động xuất khẩu. Muốn khai thác và phát triển tốt nguồn hàng hàng xuất khẩu, việc phân loại nguồn hàng xuất khẩu là rất cần thiết bởi nó sẽ tạo cho doanh nghiệp hướng đi đúng đắn trong xuất khẩu.
1.Phân loại nguồn hàng.
1.1.Phân loại theo chế độ phân cấp quản lý:
1.1.1. Nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước phân bổ.
Đây là nguồn hàng được nhà nước cam kết giao cho nước ngoài trên cơ sở các hiệp định hoặc các nghị định thư hằng năm. Sau khi ký kết các các nghị định thư hoặc các hiệp định với nước ngoài. Nhà nước phân bổ chỉ tiêu cho các đơn vị sản xuất, để các đơn vị này giao hàng hoá cho các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu thực hiện.
Vì thế đối với các đơn vị ngoại thương nguồn hàng này khá đảm bảo về số lượng và chất lượng cũng như thời gian giao hàng.
Ngày nay, chuyển sang cơ chế thị trường thì nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giảm nhiều. Nhà nước chỉ giao những chỉ tiêu mang tính định hướng với mục đích tăng cường quản lý xuất nhập khẩu. Còn các doanh nghiệp tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thông qua nghiên cứu thị trường và ký kết các hợp đồng kinh tế.
1.1.2.Nguồn hàng ngoài kế hoạch:
Nguồn hàng ngoài kế hoạch là nguồn hàng được trao đổi mua bán trên tất cả các thị trường trong nước. Các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng đã ký kết với nước ngoài mà tiến hành sản xuất thu mua, chế biến theo số lượng, chất lượng và thời gian giao hàng đã được thoả thuận với khách hàng nước ngoài trong hợp đồng kinh tế.
Cùng vói việc giảm nguồn hàng trong chỉ tiêu kế hoạch nhà nước là việc tăng nguồn hàng ngoài kế hoạch càng lớn phong phú, đa dạng về chủng loại cũng như về giá trị. Việc giao dịch trao đổi nguồn hàng này phần lớn là mua bán trao tay hoặc hợp đồng ngắn hạn. Trong tương lai cần tăng tỷ trọng giao dịch thông qua hợp đồng dài hạn.
1.2.Phân loại nguồn hàng theo đơn vị giao hàng.
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể thu mua huy động từ:
-Các xí nghiệp công nghiệp của trung ương và địa phương.
-Các xí nghiệp nông, lâm nghiệp của trung ương và địa phương.
-Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
-Các hợp tác xã, hộ gia đình.
1.3.Phân loại nguồn hàng theo phạm vi doanh nghiệp được phân công khai thác:
-Nguồn hàng nằm trong phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp, đây là địa bàn chính mà doanh nghiệp khai thác hàng.
-Các hàng năm ngoài khu vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với việc quy định khu vực của doanh nghiệp, tuy ngăn chặn tình trạng “tranh mua”. Hạn chế giá thu mua hàng xuất khẩu tăng cao. Song sẽ dẫn đến sự độc quyền của một số tổ chức ngoại thương địa phương. Qua việc khống chế giá để gây thiệt hại cho người sản xuất, về lâu dài sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất.
1.4.Phân loại nguồn hàng theo khối lượng hàng hoá thu mua được:
-Nguồn chính là nguồn có khối lượng thu mua lớn nhất của doanh nghiệp.
-Nguồn phụ là nguồn hàng chiếm một khối lượng nhỏ trong số hàng hoá xuất khẩu thu mua được của doanh nghiệp.
1.5.Phân loại nguồn hàng theo mối quan hệ kinh tế.
-Nguồn hàng truyền thống lâu dài, là nguồn hàng mà doanh nghiệp có mối quan hệ giao dịch mua bán từ lâu thường xuyên và liên tục. Với nguồn hàng này hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đảm bảo ổn định
-Nguồn hàng mới, là nguồn hàng mà doanh nghiệp mới có quan hệ giao dịch và mới khai thác. Nguồn hàng này giúp cho doanh nghiệp không ngừng mở rộng phạm vi và phát triển kinh doanh.
-Nguồn hàng vãng lai, là nguồn hàng mà doanh nghiệp chỉ giao dịch mua bán một đôi lần hoặc mua bán trôi nổi trên thị trường.
2.Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng.
Hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là biểu hiện bề ngoài của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoại thương với khách hàng, về trao đổi mua bán hàng xuất khẩu. Sau đây là một số hình thức tạo nguồn hàng.
2.1.Thu mua tạo nguồn hàng thông qua đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng.
Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, quy cách, cỡ loại, có ghi số lượng, thời gian giao hàng.
Lập đơn đặt hàng phải đảm bảo chính xác về số lượng, thời gian giao hàng. Muốn lập được đơn đặt hàng phải xác định được nhu cầu của khách hàng, phải xác định được khả năng sản xuất của các đơn vị có nguồn hàng.
Đơn đặt hàng thường là căn cứ để ký kết họp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Do vậy các doanh nghiệp thường kết hợp giữa hợp đồng với đơn hàng. Đây là hình thức ưu việt, đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ cho cả đôi bên.
2.2.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu theo hợp đồng.
Đây là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên đạt được thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng và giá cả phương thức thanh toán, thời gian giao hàng,... thì các bên ký kết hợp đồng kinh tế. Đây là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên và được pháp luật bảo vệ.
Tuỳ theo đặc điểm của các quan hệ giao dịch và đối tượng giao dịch, mà người ta áp dụng các loại hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu:
Hợp đồng mua đứt bán đoạn, là hợp đông người mua nhận hàng và trả tiền còn người bán giao hàng và nhận tiền.
Hợp đồng gia công, là loại hợp đồng mà người gia công giao nguyên liệu, bán thành phẩm, nhận sản phẩm và trả phí gia công, còn người nhận gia công nhận nhiên liệu bán thành phẩm, gia công trả thành phẩm và nhận phí gia công.
Hợp đồng đổi hàng: Đó là hai bên tiến hành trao đổi hàng hoá cho nhau.
2.3.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng.
Là hình thức mua bán “trao tay” sau khi người bán giao hàng nhận tiền và người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nghiệp vụ mua bán.
Đây là hình thức áp dụng với mua bán thu gom hàng trôi nổi trên thị trường, chủ yếu là những hàng nông sản chưa qua sơ chế. Hình thức này nhằm bổ sung cho các nguồn khác khi chưa có đủ số lượng hàng xuất khẩu. Nhưng chất lượng hàng thu mua theo hình thức này không đồng đều và không cao.
2.4. Thu mua tạo nguồn hàng thông qua liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất
Liên doanh liên kết để sản xuất hàng xuất khẩu, là hình thức doanh nghiệp ngoại thương đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất, sản xuất ra hàng hoá cho xuất khẩu. Vốn đầu tư có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua tín dụng cho vay. Trong đó, hình thức tín dụng cho vay là ưu việt hơn cả vì doanh nghiệp ngoại thương có cơ sở để hạch toán lỗ lãi đồng thời tăng thêm tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất.
Việc đầu tư tạo nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý. Các doanh nghiệp ngoại thương nếu đủ tiềm lực cần phát triển mở rộng hình thức liên doanh liên kết tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
2.5.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hệ thống đại lý để làm công tác thu mua hàng.
Tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà các doanh nghiệp ngoại thương chọn một trong các hình thức đại lý sau đây.
-Đại lý toàn quyền: Là đại lý có toàn quyền giải quyết các quan hệ mua bán.
-Đai lý đặc biệt: Là đại lý được giao một số quyền mua một lô hàng, một mặt hàng.
-Tổng đại lý: Là người được toàn quyền làm một phần việc nhất định của người uỷ thác.
-Đại lý thu uỷ: Là người được chỉ định để hành động thay thế cho người uỷ thác, với danh nghĩa và chi phí của người uỷ thác.
-Đại lý kinh tiêu: Là người đại lý hoạt động với danh nghĩa và chi phí của mình, thù lao cuả người nay là khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
-Đại lý hoa hồng: Là người được uỷ thác tiến hành hoạt động với danh nghĩa của mình với chi phí của người uỷ thác.
2.6.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua đổi hàng.
Đây là hình thức thu mua tạo nguồn hàng rất phổ biến rất phổ biến trong trường hợp các doanh nghiệp ngoại thương là người cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư kỹ thuật, máy móc, phân bón cho người sản xuất hàng xuất khẩu.
Hình thức này thường được áp dụng trong các trường hợp nguyên nhiên, vật tư máy móc , thiết bị... là những mặt hàng quý hiếm cung không đủ cầu trên thị trường hoặc những mặt hàng là phôi, nguyên vật liệu của hàng xuất khẩu.
Nếu là phôi, nguyên vật liệu, bán thành phẩm của hàng xuất khẩu thì hình thức này rất giống với hình thức gia công hàng xuất khẩu.
Hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng là một hình thức rất tốt khuyến khích các nhà sản xuất trong nước bán hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp ngoại thương.
Tóm lại: Các hình thức mua hàng và tạo nguồn hàng xuất khẩu rất phong phú và đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của các doanh nghiệp, mặt hàng, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường mà lựa chọn áp dụng một hoặc một số hình thức thu mua và tạo nguồn hàng xuất khẩu như đã nêu ở trên.
III.NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC THU MUA TẠO NGUỒN HÀNG CHO XUẤT KHẨU
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nghiệp vụ được thực hiện theo nội dung sau đây.
1.Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu .
Muốn khai thác và phát triển nguồn hàng ổn định các doanh nghiệp ngoại thương phải nghiên cứu và tiếp cận thị trường.
Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu là nghiên cứu khả năng cung cấp nguồn hàng xuất khẩu trên thị trường như thế nào? Khả năng cung cấp nguồn hàng được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn hàng thực tế là nguồn hàng có và sẵn sàng đưa vào lưu thông. Với nguồn hàng này chỉ cần thu mua, phân loại, bao gói... là có thể xuất khẩu được. Còn với nguồn hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể có hoặc không xuất hiện trên thị trường. Đối với nguồn hàng này đòi hỏi các doanh nghiệp ngoại thương phải có đơn đặt hàng, hợp đồng kinh tế ... thì người cung cấp mới tiến hành sản xuất. Trong xuất khẩu thì nguồn hàng này rất quan trọng, bởi hàng h