ĐBQH Việt Nam là người được cử tri Việt Nam trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu được bầu chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước. Các ĐBQH là những công nhân, nông dân, trí thức và những gười lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có địa vị pháp lí đặc biệt, là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội, là cầu nối quan trọng giữa chính quyền nhà nước với nhân dân. ĐBQH có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững tâm tư nguyện, vọng của quần chúng. Nếu như ĐBQH không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy theo mức độ sai lầm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm
Hoạt động của ĐBQH là một trong những hình thức hoạt động quan trọng, chủ yếu của Quốc hội Việt Nam. Tính hiệu quả trong hoạt động của Quốc hội được quyết định bởi mức độ hiệu quả, tích cực và trách nhiệm trong các hoạt động của các ĐBQH trong mỗi nhiệm kỳ.Việc tuyển cử các ĐBQH đảm bảo cho nhân dân có thể lựa chọn và bổ sung những đại diện mới vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của mình.
9 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2177 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả hoạt động của Đại biểu Quốc hội hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI (ĐBQH)
ĐBQH Việt Nam là người được cử tri Việt Nam trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu được bầu chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước. Các ĐBQH là những công nhân, nông dân, trí thức và những gười lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có địa vị pháp lí đặc biệt, là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội, là cầu nối quan trọng giữa chính quyền nhà nước với nhân dân. ĐBQH có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững tâm tư nguyện, vọng của quần chúng. Nếu như ĐBQH không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy theo mức độ sai lầm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm …
Hoạt động của ĐBQH là một trong những hình thức hoạt động quan trọng, chủ yếu của Quốc hội Việt Nam. Tính hiệu quả trong hoạt động của Quốc hội được quyết định bởi mức độ hiệu quả, tích cực và trách nhiệm trong các hoạt động của các ĐBQH trong mỗi nhiệm kỳ.Việc tuyển cử các ĐBQH đảm bảo cho nhân dân có thể lựa chọn và bổ sung những đại diện mới vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của mình.
II. HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI (ĐBQH)
1. Những hoạt động của ĐBQH theo pháp luật hiện hành
Nội dung hoạt động của đại biểu Quốc hội được quy định trong Hiến pháp 1992 tại điều 97, 98; cùng với các quy định của Luật tổ chức Quốc hội và quy định trong các văn bản pháp luật khác về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, ĐBQH thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình thông qua các phương thức hoạt động chủ yếu sau:
Tham gia xây dựng pháp luật
ĐBQH trình các dự án luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội, dự án pháp lệnh ra trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo trình tự và thủ tục do Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định. ĐBQH tuyên truyền, phổ biến hiến pháp, luật, các nghị quyết của Quốc hội và pháp luật của Nhà nước, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước. Đối với đại biểu chuyên trách thì còn trực tiếp tham gia vào việc quyết định chương trình xây dựng pháp luật, các giai đoạn của quá trình xây dựng pháp luật tại các kỳ họp Quốc hội. Có điều kiện trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến với Ban soạn thảo ngay từ giai đoạn đầu của quá trình soạn thảo hoặc cùng với Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật, dự án pháp lệnh; một số đại biểu được phân công trực tiếp tham gia các Ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh. Tham gia, thảo luận, cho ý kiến về các dự án luật, dự thảo nghị quyết tại Hội nghị ĐBQH chuyên trách do Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập.
Tham gia các hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và của các đoàn ĐBQH
ĐBQH chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Khi thực hiện quyền giám sát ĐBQH dựa vào sự tham gia của nhân dân, của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, có thể mời đại diện Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và yêu cầu đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan tham gia; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu này.
Tiếp xúc cử tri theo quy định
Theo quy định của pháp luật, ĐBQH có trách nhiệm tiếp xúc cử tri. Tiếp xúc cử tri tại đơn vị bầu cử trước và sau kỳ họp Quốc hội. Tiếp xúc cử tri theo chuyên đề. Tiếp xúc cử tri tại nơi cư trú hoặc nơi công tác. Tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến của cử tri với Quốc hội và cơ quan hữu quan đồng thời phải báo cáo với cử tri không những về hoạt động của mình mà cả về hoạt động của Quốc hội. Tiếp nhận và phân loại ý kiến, kiến nghị của cử tri sau mỗi lần tiếp xúc để chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương hoặc địa phương xem xét, giải quyết và đôn đốc việc trả lời các ý kiến, kiến nghị này để báo cáo cho cử tri biết.
Tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân
Tiếp công dân là nhiệm vụ thường xuyên của ĐBQH. ĐBQH tiếp dân theo định kì, theo lịch tại trụ sở tiếp dân và tại nhà ở, tại nơi công tác. ĐBQH nghe nhân dân góp ý xây dựng nhà nước đồng thời giúp dân giải quyết những thắc mắc, kiến nghị, khiếu nại và tố cáo. Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, ĐBQH có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người kiến nghị, khiếu nại, tố cáo biết; đôn đốc và theo dõi việc giải quyết. Nếu xét thấy việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo không thỏa đáng, ĐBQH có quyền gặp người đứng đầu cơ quan hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại. Khi cần thiết, ĐBQH có quyền người đứng đầu cơ quan hữu quan cấp trên của cơ quan đó giải quyết.
Về tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
ĐBQH tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền của quốc hội trên hai phương diện. Thứ nhất, tham gia quyết định các chính sách được quy định trong các đạo luật; thứ hai, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước về đối nội, đối ngoại; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân phối ngân sách trung ương; các công trình quan trọng của đất nước…Các quyết định này góp phần bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân để xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Tham gia vào lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước của Quốc hội…
2. Thực trạng hoạt động của ĐBQH hiện nay
Trong hoạt động xây xây dựng pháp luật, nhìn chung các ĐBQH đã có nhiều đóng góp tích cực cho việc nâng cao chất lượng của các luật, pháp lệnh. Các đại biểu đã có những sáng kiến, cải tiến và cách làm phù hợp với quy trình xây dựng pháp luật trong điều kiện hiện nay. Với thực tiễn hoạt động của mình, các ĐBQH đã trở thành lực lượng quan trọng trong quá trình thảo luận, xem xét các dự thảo luật, pháp lệnh của Quốc hội. Đặc biệt là vai trò của các đại biểu chuyên trách, do có thời gian để nghiên cứu những vấn đề cụ thể nên các đại biểu chuyên trách đã đóng góp nhiều sáng kiến, trở thành lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa quan trọng trong quá trình thảo luận, xem xét các dự thảo luật, pháp lệnh tại Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và các đoàn ĐBQH. Tuy nhiên, Quốc hội nước ta trong các nhiệm kỳ gồm hầu hết ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm, điều kiện về thời gian dành cho việc nghiên cứu, chuẩn bị các ý kiến về các dự án Luật rất hạn chế; trong khi đó, yêu cầu về số lượng và chất lượng các dự án luật trình Quốc hội xem xét, thông qua ngày càng tăng, mà thời gian dành cho mỗi kỳ họp có hạn. Còn có những đại biểu yếu về năng lực, trình độ hiểu biết về pháp luật hạn chế nên rất khó khăn để tham gia một cách hiệu quả vào hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội.
Trong việc tham gia các hoạt động giám sát của Quốc hội, Trong ba nhiệm kỳ Quốc hội gần đây (Quốc hội khoá X, XI, XII), nhất là từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 ra đời, thì hoạt động giám sát của Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội có những tiến bộ rõ rệt: tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động giám sát của Quốc hội được mở rộng; hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát từng bước được khẳng định. Tuy nhiên, số cuộc giám sát tại cơ sở tuy có tăng lên nhưng nhìn chung vẫn chưa sâu, một số cuộc giám sát chỉ mới tiếp cận ở cơ quan, đơn vị nghe báo cáo, chưa nghiên cứu làm rõ từng vấn đề. Việc huy động chuyên gia, cơ quan chuyên môn nghiệp vụ có liên quan để giúp thông tin cho Đoàn giám sát vẫn còn rất ít, chưa thành một chế độ phổ biến do cơ chế và những quy định về thẩm quyền tham vấn và chi bồi dưỡng cho chuyên gia chưa có. Các cuộc giám sát thường tổ chức theo hình thức Đoàn giám sát của Đoàn ĐBQH; ít ĐBQH thực hiện chương trình giám sát riêng theo quy định của Luật hoạt động giám sát. Nhiều kiến nghị sau giám sát của Đoàn ĐBQH được các cơ quan hữu quan thừa nhận và có điều chỉnh nhưng vẫn chưa có văn bản chính thức trả lời. Một số kiến nghị còn dàn trải, chưa thật sâu sắc và chỉ mới đưa ra khuyến nghị có tính chất chung. Việc đôn đốc và theo dõi kết quả việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát có được đặt ra, nhưng chỉ dừng ở mức theo dõi và phản ánh tình hình chung. Do đó chưa thể tổng hợp chính xác số lượng kiến nghị sau giám sát đã thực hiện. Trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, không tương xứng với công sức của Đoàn ĐBQH và ĐBQH đã đầu tư cho công tác này. Trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội nơi này, nơi khác còn có sự nể nang, ngại va chạm với lãnh đạo chủ chốt của chính quyền địa phương; thiếu kiên quyết trong tranh luận giữa người giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. Việc tổ chức các cuộc giám sát các vụ khiếu nại tồn đọng lâu ngày tuy được xem là tích cực, nhưng không nhiều và có vụ cũng chưa dứt điểm...
Trong hoạt động tiếp xúc cử tri, theo báo cáo của các đoàn ĐBQH, thì đại biểu Quốc có nhiều cố gắng để tham gia đầy đủ hoạt động tiếp xúc cử tri, nhất là đại biểu chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội. Hầu hết các ĐBQH khi tiến hành tiếp xúc cử tri đều tỏ ra quan tâm, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thể hiện vai trò là cầu nối quan trọng giữa chính quyền nhà nước với nhân dân. Đặc biệt trong thời gian qua tại một số nđịa phương có một đổi mới gây ấn tượng trong tiếp xúc cử tri đó là cho phép cử tri tự do tham gia, qua đó khắc phục tình trạng "cử tri chuyên trách, đại biểu kiêm nhiệm" thường thấy ở nhiều cuộc tiếp xúc cử tri. Tuy nhiên trong thời gian qua, hoạt động tiếp xúc cử tri còn có nhiều hạn chế. Vẫn có đại biểu do bận công việc nên không tham gia đều đặn các cuộc tiếp xúc, có vị chỉ thực hiện được 1/2 số lần tiếp xúc theo lịch đã bố trí. Vẫn còn tình trạng đại biểu khi tiếp xúc cử tri còn thụ động, không phân loại được ý kiến để trao đổi với cử tri, phản ánh tại kỳ họp hoặc kiến nghị tới các cơ quan có thẩm quyền trả lời, giải quyết; nhiều đại biểu không tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp huyện nơi ứng cử; có đại biểu chưa thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của HĐND cho cử tri. Đặc biệt, nhiều ĐBQH chuyên trách chưa chủ động gặp gỡ, tiếp xúc cử tri theo Hướng dẫn liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Và không phải lúc nào, cuộc tiếp xúc nào, địa phương nào cũng cùng Đoàn ĐBQH hoặc Hội đồng nhân dân thực hiện đúng và đủ mục tiêu đổi mới đã nêu ở trên; nhiều cử tri mong muốn được phát biểu, tham gia ý kiến tại các cuộc tiếp xúc vẫn phải đứng ngoài cuộc hoặc phải gặp riêng những chuyên viên hay cán bộ địa phương thay vì đối diện với các ĐBQH hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân, do vấn đề cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho hoạt động tiếp xúc cử tri đạt hiệu quả vẫn còn nhiều bất cập…
Trong hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; Qua nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động của các ĐBQH, Đoàn ĐBQH nhận thấy các ĐBQH, Đoàn ĐBQH trong cả nước đã rất quan tâm đến hoạt động tiếp công dân. Từ thực tiễn hoạt động tiếp công dân của ĐBQH, cử tri đã có niềm tin vào các vị ĐBQH - người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Chính vì vậy, trong các buổi tiếp công dân của ĐBQH, có nhiều công dân đăng ký để được gặp và trình bày nội dung liên quan với các vị ĐBQH. Đặc biệt trong thời gian gần đây, nhất là Quốc hội có kế hoạch lấy ý kiến toàn dân tham gia vào hai dự án luật là Luật phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhiều công dân đã đến trình bày quan điểm và ý kiến tham gia, góp ý vào hai dự án luật này…Tuy nhiên, cũng có nhiều hạn chế; đó là vẫn còn hiện tượng giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân chậm, qua nhiều tầng nấc hoặc giải quyết chưa thỏa đáng...nên công dân tiếp tục gửi đơn thư đến nhiều cơ quan khác nhau. Qua thực tiễn cho thấy, việc tiếp công dân chủ yếu được tiến hành bởi các ĐBQH chuyên trách ở các đoàn ĐBQH. Các đại biểu chuyên trách ở các cơ quan Quốc hội, do bận công tác, do xa địa bàn nên ít có điều kiện tham dự đầy đủ các buổi tiếp dân theo lịch. Hiệu quả xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo của ĐBQH nói chung và ĐBQH chuyên trách nói riêng cũng chưa cao và chủ yếu là thông qua Đoàn ĐBQH. Nhiều công dân chưa hiểu rõ về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ĐBQH trong hoạt động này nên quan niệm sai lệch về trách nhiệm của ĐBQH…
Trong hoạt động tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, thực tiễn cũng cho thấy vai trò và những đóng góp tích cực, quan trọng của các đại biểu Quốc hội. Đặc biệt là tại các kỳ họp của Quốc hội, nhiều vấn đề quan trọng đem ra bàn bạc như các chính sách trong các đạo luật, kế hoạch kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phân phối ngân sách…đã không ít các ý kiến nhận xét, đánh giá, đóng góp sáng kiến của các vị đại biểu Quốc hộ. Tuy nhiên, còn có vấn đề khi đem ra trước Quốc hội cũng chỉ dừng lại ở tranh luận, điều này làm giảm hiệu quả kỳ họp Quốc hội; có hiện tượng đại biểu đóng góp ý kiến nhưng chính sách đã định thì vẫn thi hành.Tâm lý nể nang, ngại va chạm, không thảo luận; trình độ, năng lực hạn chế của một số ĐBQH ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động này…
3. Phương hướng để nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐBQH hiện nay
Trước tiên, để nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐBQH thì phải có phương hướng chung đó là phải nâng cao chất lượng ĐBQH. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu đổi mới cơ chế ứng cử, đề cử và bầu cử ĐBQH, theo hướng: quan tâm nhiều hơn đến tiêu chuẩn và năng lực người được đề cử để tham gia có hiệu quả vào việc quyết định các vấn đề chung của đất nước; quan tâm tạo điều kiện để cơ chế tự ứng cử được thực hiện ngày càng tốt hơn trên thực tế. Đồng thời, nghiên cứu sửa đổi Quy chế hoạt động của ĐBQH theo hướng phát huy tính chủ động sáng tạo của bản thân đại biểu. Bên cạnh một số ĐBQH trẻ, thì các cơ quan giúp việc cho Quốc hội ở trung ương cũng như tại Đoàn ĐBQH địa phương cần thu hút các cán bộ công chức thuộc thế hệ trẻ làm việc phấn đấu, trưởng thành và đóng góp xây dựng Quốc hội. Cần có kế hoạch bồi dưỡng, bố trí cán bộ cụ thể, mang tính chiến lược lâu dài để thế hệ trẻ có đủ thời gian chuẩn bị kiến thức và kỹ năng làm đại biểu một cách kỹ càng và có bài bản hơn. Nếu được như vậy, thế hệ trẻ sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc học hỏi kinh nghiệm từ lớp đại biểu đi trước; đồng thời, được thử thách nhiều hơn trong công việc. Đây là tiền đề cho quá trình phát triển năng lực của bản thân các đại biểu trẻ tương lai. Quan tâm hơn nữa chính sách lương bổng đối với ĐBQH. Cần tăng cường hơn nữa số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách để có điều kiện hoạt động nhiều hơn cho Quốc hội. Qua thực tiễn cho thấy, việc hình thành chế định ĐBQH chuyên trách là một trong những yếu tố được xem là cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội nước ta trong điều kiện hiện nay. Việc tăng số lượng đại biểu chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội cần được tiến hành theo hướng: Tăng số ĐBQH chuyên trách phải kết hợp với việc bố trí đại biểu chuyên trách ở các đoàn ĐBQH làm thành viên của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Tuỳ theo nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung, lĩnh vực mà Hội đồng dân tộc, các ủy ban đảm nhiệm mà tăng số ĐBQH chuyên trách cho phù hợp. Các ủy ban đảm trách những lĩnh vực rộng lớn, nhiệm vụ nặng nề, nội dung công việc nhiều hơn thì có thể tăng số ĐBQH chuyên trách nhiều hơn. Phải có nhận thức thống nhất về vấn đề “ĐBQH chuyên trách ở trung ương” và “ĐBQH chuyên trách ở địa phương”, tránh tình trạng trong nhận thức và ngay cả trong các báo cáo chính thức hình thành hai thuật ngữ “ĐBQH trung ương” và “ĐBQH địa phương”. Tiêu chuẩn chung đối với ĐBQH đã được quy định tại Điều 3 của Luật bầu cử ĐBQH; tuy nhiên cũng cần phải pháp điển hóa nội dung các văn bản hướng dẫn về tiêu chuẩn ĐBQH chuyên trách thành các quy định trong Luật tổ chức Quốc hội. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, tạo năng lực pháp lý thực sự cho ĐBQH chuyên trách hoạt động có hiệu quả. Để thực hiện được điều này, cần sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật có liên quan; chẳng hạn như phân loại ĐBQH chuyên trách để quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng chức danh hoạt động chuyên trách trong Quốc hội; quy định trách nhiệm cụ thể của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, hữu quan trong việc tạo điều kiện cho hoạt động của ĐBQH chuyên trách…Xây dựng cơ chế theo dõi, đánh giá hiệu quả hoạt động của từng ĐBQH chuyên trách và cả đại biểu không chuyên trách theo định kỳ hàng năm; cuối nhiệm kỳ, có đánh giá chung về năng lực và phẩm chất của các đại biểu. Trên cơ sở xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động và tiêu chuẩn để quyết định việc tiếp tục giới thiệu những người xứng đáng tái cử làm đại biểu chuyên trách cho các khóa tiếp theo. Tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp vụ kỹ thuật, chuyên môn, kỹ năng hoạt động của không những ĐBQH chuyên trách mà cả Đại biểu không chuyên trách theo hướng: mở các lớp huấn luyện, đào tạo nghiệp vụ về kỹ năng phân tích chính sách, kỹ thuật điều tra, kỹ năng diễn thuyết, kỹ năng đàm phán... nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp trong các hoạt động của ĐBQH…
Trong hoạt động xây dựng pháp luật của ĐBQH, đòi hỏi sự đổi mới quy trình lập pháp của Quốc hội, trong đó có giai đoạn tham gia xây dựng dự án luật của ĐBQH và Đoàn ĐBQH tại địa phương trước kỳ họp. Cần phải tăng cường hơn nữa những hoạt động ở công đoạn tham gia xây dựng pháp luật của ĐBQH và Đoàn ĐBQH ở địa phương. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện đa số các ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm, thì vai trò của ĐBQH chuyên trách và Đoàn đại biểu biểu Quốc hội trong việc tổ chức để các đại biểu thực hiện nhiệm vụ này như thế nào. Để tạo điều kiện cho các Đoàn ĐBQH thực hiện được yêu cầu đó, dưới các mức độ khác nhau, đòi hỏi trong các văn bản pháp luật được ban hành, từ Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội…phải xác định một cách rõ ràng hơn nữa nhiệm vụ của ĐBQH và Đoàn ĐBQH trong việc tham gia xây dựng pháp luật, như: Các Đoàn ĐBQH tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các cơ quan, tổ chức hữu quan ở địa phương; các chuyên gia, cộng tác viên, tư vấn liên quan đến dự án Luật; tổ chức cho ĐBQH trong đoàn nghiên cứu đóng góp ý kiến vào các dự án luật; làm báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia và các dự án Luật gửi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo quy định. Cùng với việc tiếp tục đổi mới về trình tự, thủ tục chuẩn bị và xem xét quyết định ban hành Luật, cần mở rộng trên thực tế các chủ thể trình dự án luật theo hướng, ngoài Chính phủ, cần khuyến khích các cơ quan, tổ chức hữu quan, các cá nhân có quyền trình dự án luật; tăng cường việc chuẩn bị và trình dự án luật của cá nhân ĐBQH hoặc nhóm ĐBQH và có cơ chế về tài chính, tham mưu giúp việc cụ thể phù hợp nhằm tạo điều kiện đảm bảo để ĐBQH thực hiện được quyền trình dự án luật của mình.
Đối với các hoạt động giám sát của ĐBQH, Về lý luận cũng như trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong thời gian tới cần nhất quán quan điểm: Xây dựng một Quốc hội mạnh, có thực quyền; được đảm bảo các điều kiện cần thiết để thực thi một cách đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà Hiến pháp và luật quy định. Xác định rõ hơn phạm vi, nội dung nhất là đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội. Vì theo quy định tại khoản 2, Điều 3, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, quy định đối tượng chịu sự giám sát quá rộng và chưa rõ ràng “…Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dâ