“Thương trường như chiến trường”-Đây là câu nói phổ biến và ai cũng có thể nói nói về hoạt động kinh tế nhưng không phải ai cũng hiểu rõ câu nói này. Tại sao lại nói “thương trường như chiến trường”? Sau hàng thế kỉ hình thành, các chuyên gia kinh tế đã chỉ ra rằng yếu tố tạo nên sự hấp dẫn cũng như rủi ro cho hoạt động kinh tế là “cạnh tranh”. Các thành phần của nền kinh tế luôn cạnh tranh với nhau, không ngừng mở rộng quy mô hoạt động với mục tiêu cuối cùng là thu được lợi nhuận cao nhất. Một công ty kinh doanh thành công không có nghĩa là sẽ không bị cạnh tranh mà thực tế, chính những công ty này lại là yếu tố kích thích sự cạnh tranh trở nên mạnh mẽ hơn, khốc liệt hơn, thậm chí là đánh bại đối thủ, buộc đối thủ phải phá sản.
Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang hội nhập với kinh tế thế giới. Với đặc điểm là những công ty vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn, kinh tế Việt Nam đang đối mặt với câu hỏi “làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam” vì sự lớn mạnh của doanh nghiệp chính là nhân tố chính gây dựng sự lớn mạnh của nền kinh tế. Cùng với sự phát triển kinh tế, thị trường chứng khoán Việt Nam đã được hình thành từ năm 2000. Sau 11 năm phát triển, hiện nay thị trường chứng khoán đã trưởng thành hơn với 105 công ty chứng khoán thành viên. Tương tự những thị trường khác, “cạnh tranh” giữa các công ty chứng khoán đang là một vấn đề được bàn thảo nhiều trong bối cảnh phần lớn công ty chứng khoán hiện nay là các công ty vừa và nhỏ và bức tranh kinh tế vĩ mô, kinh tế ngành ảm đạm đòi hỏi tái cơ cấu thị trường.
Được thành lập cuối năm 2008, công ty cổ phần chứng khoán Trường Sơn –TSS- đã có được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh đó, TSS vẫn còn tồn tại những hạn chế và chưa phát huy được hết thế mạnh của mình. Sau thời gian thực tập, em nhận thấy công ty cần có những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đứng vững trong thị trường chứng khoán. Với mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty, em đã chọn đề tài “Năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Trường Sơn – thực trạng và giải pháp”.
62 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3503 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Trường Sơn – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
“Thương trường như chiến trường”-Đây là câu nói phổ biến và ai cũng có thể nói nói về hoạt động kinh tế nhưng không phải ai cũng hiểu rõ câu nói này. Tại sao lại nói “thương trường như chiến trường”? Sau hàng thế kỉ hình thành, các chuyên gia kinh tế đã chỉ ra rằng yếu tố tạo nên sự hấp dẫn cũng như rủi ro cho hoạt động kinh tế là “cạnh tranh”. Các thành phần của nền kinh tế luôn cạnh tranh với nhau, không ngừng mở rộng quy mô hoạt động với mục tiêu cuối cùng là thu được lợi nhuận cao nhất. Một công ty kinh doanh thành công không có nghĩa là sẽ không bị cạnh tranh mà thực tế, chính những công ty này lại là yếu tố kích thích sự cạnh tranh trở nên mạnh mẽ hơn, khốc liệt hơn, thậm chí là đánh bại đối thủ, buộc đối thủ phải phá sản.
Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang hội nhập với kinh tế thế giới. Với đặc điểm là những công ty vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn, kinh tế Việt Nam đang đối mặt với câu hỏi “làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam” vì sự lớn mạnh của doanh nghiệp chính là nhân tố chính gây dựng sự lớn mạnh của nền kinh tế. Cùng với sự phát triển kinh tế, thị trường chứng khoán Việt Nam đã được hình thành từ năm 2000. Sau 11 năm phát triển, hiện nay thị trường chứng khoán đã trưởng thành hơn với 105 công ty chứng khoán thành viên. Tương tự những thị trường khác, “cạnh tranh” giữa các công ty chứng khoán đang là một vấn đề được bàn thảo nhiều trong bối cảnh phần lớn công ty chứng khoán hiện nay là các công ty vừa và nhỏ và bức tranh kinh tế vĩ mô, kinh tế ngành ảm đạm đòi hỏi tái cơ cấu thị trường.
Được thành lập cuối năm 2008, công ty cổ phần chứng khoán Trường Sơn –TSS- đã có được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh đó, TSS vẫn còn tồn tại những hạn chế và chưa phát huy được hết thế mạnh của mình. Sau thời gian thực tập, em nhận thấy công ty cần có những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đứng vững trong thị trường chứng khoán. Với mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty, em đã chọn đề tài “Năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Trường Sơn – thực trạng và giải pháp”.
CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1
1.1 Một số khái niệm cơ bản 1
1.1.1 Công ty chứng khoán- khái niệm và vai trò 1
1.1.2 Các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán 5
1.2 Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán 7
1.2.1 Khái niệm 7
1.2.2 Mô hình phân tích SWOT 9
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán 11
1.2.4 Các chiến lược cạnh tranh chủ yếu của công ty chứng khoán 18
CHƯƠNG 2 NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN TRƯỜNG SƠN 20
2.1 Sơ lược về công ty cổ phần chứng khoán Trường Sơn: 20
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của CTCP CK Trường Sơn: 20
2.1.2 Cơ cấu tổ chức và cơ cấu nhân sự 21
2.2 Đánh giá kết quả kinh doanh và năng lực tài chính của TSS 25
2.2.1 Bối cảnh kinh tế vĩ mô 25
2.2.2 Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh và một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của CTCP CK Trường Sơn 26
2.2.3 Phân tích năng lực cạnh tranh của TSS 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 43
CHƯƠNG 3- MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TSS TRONG THỜI GIAN TỚI 46
3.1 Định hướngng phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2011-2020 46
3.2 Định hương phát triển của TSS 48
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của TSS 49
3.3.1 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 49
3.3.2 Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ 51
3.3.3 Một số giải pháp khác 53
3.4 Một số kiến nghị 54
3.4.1 Kiến nghị đối với Bộ Tài Chính và Chính Phủ 54
3.4.2 Kiến nghị đối với Uỷ ban Chứng Khoán Nhà Nước 56
KẾT LUẬN 58
CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Công ty chứng khoán- khái niệm và vai trò
1.1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
Là nhân tố then chốt của nền kinh tế, các doanh nghiệp ngày càng phát triển, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ. Để làm được điều đó, vấn đề vốn, đặc biết là vốn dài hạn, dần trở thành mối quan tâm bậc nhất của các doanh nghiệp. Để huy động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, doanh nghiệp còn huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi một bộ phận các chứng khoán có giá trị nhất định được phát hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán chứng khoán; và đây chính là sự ra đời của Thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ phận của Thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán các loại.
Cũng như bao “thị trường” khác, thị trường chứng khoán cần một nơi để giao dịch, cần một “trung gian” để đảm bảo nguồn vốn được lưu thông trôi chảy từ nơi thừa vốn đến nới thiếu vốn. Trung gian đó chính là công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian , thực hiện trung gian tài chính thông qua các hoạt động chủ yếu như mua bán chứng khoán, môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, phát hành và bảo lãnh chứng khoán, tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư. Công ty chứng khoán có thể tham gia quá trình trao đổi cổ phiếu trong thị trường với vai trò trung gian.
1.1.1.2 Vai trò của công ty chứng khoán
Vai trò huy động vốn
Công ty chứng khoán là một trong những trung gian tài chính có chức năng huy động vốn. Với những lý do như chi phí lớn nếu phải tổ chức một phòng-ban chuyên cho việc mua-bán chứng khoán, hiệu quả huy động vốn không cao, khó có thể giải trình hoạt động mua, bán chứng khoán trong sổ sách kế toán chung,... doanh nghiệp cần có những người chuyên nghiệp để phát hành chứng khoán cho họ. Còn các nhà đầu tư không thể tự đến sở giao dịch chứng khoán để mua bán các chứng khoán phát hành, vì vậy họ phải nhờ đến các công ty chứng khoán. Hay nói cách khác, công ty chứng khoán có vai trò là cầu nối và là kênh dẫn vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu vốn (cần huy động vốn). Các công ty chứng khoán thường đảm nhận vai trò này thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán và môi giới chứng khoán, Ngân hàng đầu tư.
Vai trò hình thành giá cả chứng khoán
Trên thị trường sơ cấp (OTC), khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán cho tổ chức phát hành, công ty chứng khoán thực hiện vai trò hình thành giá cả chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý đối với những chứng khoán trong đợt phát hành. Thông qua Sở giao dịch chứng khoán, các công ty chứng khoán cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng với thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình.
Vai trò thực thi thanh khoản của chứng khoán
Công ty chứng khoán giúp nhà đầu tư có thể chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán hoặc ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Điều này nhằm đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán, giúp cho nhà đầu tư ít phải chịu thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư.
Dịch vụ tư vấn tài chính
Các công ty chứng khoán không chỉ thực hiện mệnh lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu và các cá nhân đầu tư. Dịch vụ tư vấn có thể bao gồm:
Thu thập và xử lý thông tin về các khả năng và cơ hội đầu tư.
Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Cung cấp thông tin về triển vọng trong ngắn hạn và dài hạn của các khoản đầu tư.
Thúc đẩy vòng quay chứng khoán
Thông qua việc cung cấp dịch vụ tư vấn, cung cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau, công ty chứng khoán góp phần làm tăng vòng quay của chứng khoán. Chứng khoán sẽ không nằm trong tay một người quá lâu mà được luân chuyển liên tục từ nhà đầu tư này sang nhà đầu tư khác. Đây chính là điểm hấp dẫn của thị trường chứng khoán cũng như là động cơ thúc đẩy các công ty chứng khoán cải tiến công cụ tài chính của mình.
Cung cấp cho thị trường tài chính các sản phẩm đầu tư hiệu quả
Không chỉ đơn thuần là nơi mua- bán chứng khoán giữa các cá nhân, tổ chức trong hệ thống tài chính, công ty chứng khoán, với mục đích tối đa hóa lợi nhuận đã đưa ra không ít các sản phẩm đầu tư. Đáng kể nhất là các công cụ chứng khoán phái sinh. Điều này giúp thỏa mãn nhu cầu nhà đầu tư cũng như yểm trợ to lớn cho thị trường
1.1.1.3 Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phụ thuộc vào quy mô kinh doanh và các nghiệp vụ mà công ty hoạt động cũng như hình thức sở hữu của công ty. Theo điều 59, Luật chứng khoán Việt Nam 2007: “Công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp”.
Cơ quan quyền lực cao nhất của công ty chứng khoán là Hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị bổ nhiệm Ban Giám đốc và Giams đốc điều hành công ty. Giúp việc cho Hội đồng quản trị là Ban kiểm soát với nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát tất cả các giao dịch chứng khoán.
Theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán gồm các phòng chủ yếu sau:
Phòng giao dịch : Phòng giao dịch thực hiện các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán và OTC. Chức năng chính của phòng này là nhận và thực hiện giao dịch tại Sở đối với các lệnh giao dịch. Thồng thường, phòng giao dịch bao gồm 3 bộ phận sau:
+ Bộ phận môi giới khách hàng
+ Bộ phận tự doanh
+ Bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán
Phòng Kế toán- Tài chính gồm 2 bộ phận chủ yếu là:
+ Bộ phận kế toán: Xử lý các hợp đồng và tài liệu giao dịch, soạn thảo, in ấn, gửi cho khách hàng, nhận lại từ khách hàng, lưu trữ các hợp đồng, chứng từ, lệnh,...
+ Bộ phận tài chính: Quản lý tài chính của công ty thông qua tài khoản chứng khoán và tiền quản lý việc cho khách hàng vay tiền để đầu tư vào chứng khoán...
P hòng marketing: Quan hệ với khách hàng của công ty, nhận lệnh
Phòng quản trị-hành chính tổng hợp
Phòng lưu ký, đăng ký, lưu trữ
Phòng quả lý tài sản
Các phòng này đem lại cho công ty thu nhập to lớn bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó.
Cũng như nhiều công ty khác, công ty chứng khoán không chỉ tồn tại một cơ sở mà có thể có một trụ sở chính và nhiều chi nhánh nhằm mở rộng quy mô công ty, chiếm lĩnh thị trường.
1.1.2 Các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán
1.1.2.1 Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Theo Luật Chứng khoán ngày 29/06/2006 , nghiệp vụ môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng. Nghiệp vụ môi giới được hiểu là làm đại diện- được ủy quyền, thay mặt khách hàng mua bán một hoặc một số loại chứng khoán.
Đây là nghiệp vụ chủ yếu của công ty chứng khoán. Nghiệp vụ này bao gồm nhận lệnh giao dịch mua bán chứng khoán cho khách hàng; chuyển các lệnh đó vào Sở giao dịch; thanh toán và quyết toán các giao dịch. Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán thu phí môi giới từ khách hàng. Phí môi giới thường được tính theo tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị giao dịch.
1.1.2.2 Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hnhaf trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng.
Theo quyết định số 27/2007/ QĐ-BTC ngày 2-4-2007 về “Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán” do Bộ tài chính bán hành, công ty chứng khoán được bảo lãnh phát hành chứng khoán nếu đáp ứng các điều kiện sau:
- Được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
- Không vi phạm pháp luật chứng khoán trong 06 tháng liên tục liền trước thời điểm bảo lãnh
- Tổng giá trị bảo lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành vào thời điểm cuối quý gần nhất tính đến ngày kí hợp đồng bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh
- Có tỷ lệ vốn khả dụng trên vốn nợ điều chỉnh trên 65 trong 03 tháng liên trước thời điểm nhận bảo lãnh phát hành.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán thu về hoa hồng bảo lãnh. Hoa hồng này có thể là cố định, có thể là tùy từng công ty chứng khoán.
1.1.2.3 Nghiệp vụ tự doanh
Giao dịch tự doanh là các giao dịch bằng chính nguồn vốn kinh doanh của công ty chứng khoán nhằm phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi của chính mình. Đó là hoạt động mua đi bán lại chứng khoán, nói các khác là hoạt động kinh doanh nhằm thu chênh lệch giá. Theo Luật chứng khoán 2006, nghiệp vụ tự doanh là việc công ty chứng khoán mua và bán chứng khoán cho chính mình.
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện qua cơ chế giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường phi tập trung OTC. Trên thị trường chứng khoán tập trung, lệnh giao dịch của công ty chứng khoán được thực hiện tương tự như lệnh của khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt động tự doanh có thể được thực hiện trực tuyến giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua hệ thống giao dịch tự động, hoặc thông qua hoạt động tạo thị trường. Như vậy, hoạt động tự doanh mang tính đầu cơ cao. Mục đích hoạt động tự doanh chứng khoán là dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán, kinh doanh đầu tư, kinh doanh hùn vốn, can thiệp bảo vệ giá chứng khoán và thu lợi.
Hoạt động tự doanh có tác dụng tăng khối lượng mua bán chứng khoán, tạo điều kiện cho thị trường sôi động và tăng tính thanh khoản cho thị trường. Tuy nhiên, hoạt động tự doanh cũng có mặt tiêu cực. Đó là khi các công ty chứng khoán sử dụng các hoạt động bị cấm như thao túng thị trường, thông đồng với nhau nhằm tăng giá hoặc giảm giá chứng khoán để kiếm chênh lệch giá gây tổn hại cho giới đầu tư.
1.1.2.4 Nghiệp vụ tư vấn và đầu tư chứng khoán
Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán là dịch vụ mà công ty chứng khoán cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán, tái cơ cấu tài chính, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp phát hành và niêm yết chứng khoán… Dịch vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính có thể đươc bất kỳ công ty chứng khoán hay cá nhân nào tham gia thông qua:
Khuyến cáo
Lập báo cáo
Tư vấn trực tiếp
Thông qua ấn phẩm về chứng khoán để thu phí.
Hoạt động tư vấn đầu tư là việc cung cấp các thông tin, cách thức, đối tượng chứng khoán, thời hạn, khu vực… và các vấn đề có tính quy luật của hoạt động đầu tư chứng khoán. Nghiệp vụ này đòi hỏi nhiều kiến thức và kỹ năng chuyên môn mà không yêu cầu nhiều vốn. Tính trung thực của công ty tư vấn có tầm quan trọng đặc biệt. Ngoài dịch vụ tư vấn đầu tư, các công ty chứng khoán có thể sử dụng kỹ năng để tư vấn cho các công ty về việc sáp nhập, thâu tóm, tái cơ cấu vốn của công ty để đạt hiệu quả hoạt động cao.
Không phải công ty chứng khoán nào cũng được thực hiện tất cả các nghiệp vụ trên. Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể ở Việt Nam, một công ty chứng khoán nếu muốn thực hiện đầy đủ tất cả 4 nghiệp vụ: môi giới (25 tỷ đồng), tự doanh (100 tỷ đồng), bảo lãnh phát hành (165 tỷ đồng), tư vấn đầu tu (10 tỷ đồng) thì phải có vốn pháp định là 300 tỷ đồng. Ngoài các nghiệp vụ trên, công ty chứng khoán còn có thể thực hiện một số hoạt động khác như giao dịch ký quỹ (cho vay chứng khoán, cho vay kí quỹ), lưu ký chứng khoán…
1.2 Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ cạnh tranh kinh tế được nhà kinh tế học người Anh là Adam Smith đưa ra.Cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẽ, người tiêu dùng, thương nhân…) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ thì: Cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.
Cạnh tranh kinh tế là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá vì nó xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh cũng là một nhu cầu tất yếu của hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường, nhằm mục đích chiếm lĩnh thị phần, tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hoá để đạt được lợi nhuận cao nhất. Ở góc độ thương mại, cạnh tranh là một trận chiến giữa các doanh nghiệp và các ngành kinh doanh nhằm chiếm được sự chấp nhận và lòng trung thành của khách hàng. Hệ thống doanh nghiệp tự do đảm bảo cho các ngành có thể tự mình đưa ra các quyết định về mặt hàng cần sản xuất, phương thức sản xuất, và tự định giá cho sản phẩm hay dịch vụ.
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế. Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển.
Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng. Cạnh tranh là tiền đề của hệ thống free-enterprise vì càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng có chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng giá trị tối ưu nhất đối với những đồng tiền mồ hôi công sức của họ.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước. Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại,...) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái.
Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng thời cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho mọi người và cho cộng đồng, xã hội.
1.2.1.2 Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thõa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao, bằng việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường .
Năng lực canh tranh của doanh nghiệp được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp và là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh không chỉ được tính băng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,… mà năng lực cạ