Đề tài Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành, một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (TNBTTHNHĐ) đã được ghi nhận một cách tương đối đầy đủ trong Bộ Luật Dân sự (BLDS) và các văn bản hướng dẫn, tạo ra cơ sở pháp lý cho các Toà án trong công tác xét xử những tranh chấp liên quan tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật nước ta về TNBTTHNHĐ chưa có sự thống nhất với các quy định trong những phần khác của BLDS gây ra tình trạng khó áp dụng luật trong thực tiễn tại các Toà án, nhất là các vụ việc có liên quan đến xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân ngoài hợp đồng. Vậy nên, chúng ta cùng đi vào nghiên cứu vấn đề: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.

doc22 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2649 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn MỞ BÀI Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (TNBTTHNHĐ) đã được ghi nhận một cách tương đối đầy đủ trong Bộ Luật Dân sự (BLDS) và các văn bản hướng dẫn, tạo ra cơ sở pháp lý cho các Toà án trong công tác xét xử những tranh chấp liên quan tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật nước ta về TNBTTHNHĐ chưa có sự thống nhất với các quy định trong những phần khác của BLDS gây ra tình trạng khó áp dụng luật trong thực tiễn tại các Toà án, nhất là các vụ việc có liên quan đến xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân ngoài hợp đồng. Vậy nên, chúng ta cùng đi vào nghiên cứu vấn đề: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. NỘI DUNG I.TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG 1.Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Điều 604 BLDS 2005 quy định: “1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, câm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.” Như vậy, theo quy định tại Điều 604 BLDS thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (TNBTTHNHĐ) phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng áp dụng ngay cả trong trường hợp không có lỗi như thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường… Dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) trong trường hợp này được gọi là trách nhiệm nâng cao. Vậy ta có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. 2.Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là theo quy định tại mục 1 phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về nguyên tắc phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau: phải có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật, có lỗi của người gây thiệt hại trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Lỗi không phải là điều kiện bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, trong một số trường hợp, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại không có lỗi (Khoản 3 Điều 623, Điều 624 BLDS 2005). 3.Nguyên tắc bồi thường thiệt hại Việc BTTH ngoài hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau: Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường. 4. Ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Trách nhiệm BTTTHNHĐ nhằm khắc phục những hậu quả về tài sản, phục hồi tình trạng tài sản của người bị thiệt hại trong phạm vi, khả năng nhất định, đảm bảo lợi ích của người bị thiệt hại. Giải quyết việc BTTHNHĐ là áp dụng một biện pháp trách nhiệm dân sự, được thể hiện theo một bản án dân sự hay một quyết định dân sự, trong một bản án dân sự về nguyên tắc thì thiệt hại phải được bồi thường một cách toàn bộ và kịp thời (Điều 605 BLDS). Điều này có ý nghĩa rất quan trọng khi thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của cá nhân bị xâm hại. Việc quyết định bồi thường kịp thời có ý nghĩa rất quan trọng đối vơi nạn nhân trong việc cứu chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản bị xâm phạm. Ngoài ra, TNBTTH không chỉ nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra, mà còn giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. II.NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN DO GÂY THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG Hành vi gây thiệt hại có thể được thực hiện bởi bất cứ chủ thể nào. Tuy nhiên không phải chủ thể nào gây thiệt hại cũng có khả năng để thực hiện việc bồi thường. BLDS 2005 quy định trách nhiệm bồi thường trong nhiều trường hợp, tình huống cụ thể, có trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do tài sản gây ra, có trường hợp trách nhiệm này phát sinh do con người gây ra, có trường hợp người của pháp nhân, người của cơ quan nhà nước gây thiệt hại… Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là khả năng một chủ thể thực hiện việc bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình hay của người khác gây ra, dẫn đến thiệt hại về tài sản, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín. BLD quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác. Do vậy, có thể hiểu mặc nhiên các chủ thể khác gây thiệt hại sẽ được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân theo pháp luật hiện hành được quy định tại Điều 606 BLDS 2005 và hướng dẫn tại mục 3 phần I Nghị quyết 03/2006/HĐTP-TANDTC ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Theo đó, năng lực này phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng tài sản của cá nhân đó và khả năng bồi thường thiệt hại. Trong những yếu tố trên, yếu tố về độ tuổi chiếm vị trí chủ đạo để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chính cá nhân gây ra thiệt hại hay là cha, mẹ; người giám hộ; trường học, bệnh viện hay tổ chức khác của người gây thiệt hại, vì độ tuổi là căn cứ để xác định khả năng nhận thức của cá nhân đối với hành vi của mình. 1.Đối với cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Khoản 1 Điều 606 BLDS quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.” Khi xem xét mối liên hệ giữa quy định này với quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì thấy rằng: Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì phải tự mình bồi thường thiệt hại khi gây thiệt hại, cũng có nghĩa là trong trường hợp này người gây thiệt hại là bị đơn dân sự trước tòa án (Mục 3.1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ–HĐTP). Việc bồi thường khi người gây thiệt hại trên 18 tuổi và có đủ năng lực hành vi dân sự không phụ thuộc vào tình trạng tài sản của người này Việc xác định người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải bồi thường cho những thiệt hại mà mình gây ra là hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ, người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đủ điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật do vây, họ hoàn toàn có năng lực để tham gia và trở thành chủ thể của quan hệ BTTH và nếu là người gây thiệt hại thì họ hoàn toàn có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Ở độ tuổi này, họ đã có khả năng lao động, có thể tạo ra thu nhập, hình thành khối tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ trong số những người từ đủ mười tám tuổi trở lên là những người mới trưởng thành, họ vẫn còn đi học, chưa có công việc làm, chưa có thu nhập hay tài sản đáng kể, vẫn sống phụ thuộc vào cha, mẹ. Vậy, trong trường hợp những người từ đủ mười tám tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng không có tài sản riêng gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thuộc về ai? Nếu họ vẫn là những người phải chịu trách nhiệm BTTH thì họ phải thực hiện trách nhiệm đó như thế nào? Nếu họ không thực hiện được thì phải chăng họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi và những người bị thiệt hại cũng không được bồi thường? Đây là một tình huống xảy ra khá phổ biến trong những vụ về xác định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Nếu Tòa án áp dụng một cách tuyệt đối và cứng nhắc những quy định của pháp luật thì sẽ phải hoãn việc thi hành án cho đến khi người gây thiệt hại là người mới trưởng thành có việc làm, có thu nhập. Tuy nhiên, việc làm này lại trái với nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời, không đảm bảo khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc khắc phục thiệt hại một cách nhanh nhất, đảm bảo cuộc sống ổn định cho người bị thiệt hại trước khi bị xâm phạm. Vậy nên chăng trong trường hợp này Toà án có thể chủ động giải thích, khuyến khích cha mẹ người thành niên đó tự nguyện bồi thường thiệt hại do người mới trưởng thành gây ra. Toà án có thể công nhận sự tự nguyện đó, những về mặt pháp lý, không thể quyết định cha mẹ họ phải bồi thường. 2. Đối với người dưới 18 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự Điều 18 BLDS 2005 quy định: “Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Người chưa thành niên là những người bắt đầu có sự nhận thức về hành vi của mình, tuy nhiên sự nhận thức này vẫn còn những hạn chế nhất định. Căn cứ vào độ tuổi và trình độ nhận thức và khả năng chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, pháp luật dân sự Việt Nam phân chia người chưa thành niên thành hai nhóm: những người dưới 15 tuổi và những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo đó, năng lực chịu trách nhiệm BTTH của hai nhóm này cũng không giống nhau. Khoản 2 và khoản 3 Điều 606 BLDS quy định về trường hợp người chưa thành niên và người bị mất năng lực hành vi dân sự. Có thể chia làm các trường hợp: chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cha mẹ; người giám hộ hoặc trường học, bệnh viện, tổ chức khác. 2.1 Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cha mẹ 2.1.1.Với người dưới 15 tuổi Khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 quy định: “Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 Luật này”. Như vậy, trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại trước tiên được xác định cho cha, mẹ của người đó. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, do chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất cũng như nhận thức nên thường là những đối tượng dễ uốn nắn, dễ bị ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài. Sự giáo dục của cha mẹ trong giai đoạn này có tính chất quyết định đến việc định hình nhân cách của người chưa thành niên sau này. Người đó sẽ trở thành một công dân tốt hay xấu phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển trong giai đoạn này. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định vấn đề BTTH do con dưới mười lăm tuổi gây ra tại Điều 40 như sau: “Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định tại Điều 611 của Bộ luật dân sự năm 1995”. Ngoài ra, Điều 17 Luật Bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em ngày 12/08/1991 cũng quy định: “Cha mẹ, người đỡ đầu phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự về những thiệt hại do hành vi của những đứa trẻ mình nuôi dạy gây ra”. Kết hợp với các quy định tại Điều 609 BLDS 2005 có thể thấy, pháp luật nước ta rất coi trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc BTTH do hành vi trái pháp luật của con từ dưới mười lăm tuổi gây ra. Chính vì thế, cha mẹ của những người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách bị đơn dân sự, có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ cho thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con, trong khi chính cá nhân gây thiệt hại lại hoàn toàn không có trách nhiệm bồi thường. 2.1.2.Với người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi Khoản 2 Điều 606 BLDS cũng quy định: “Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.” Đối với người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi, đây là độ tuổi nhận thức đã khá hoàn thiện và cũng có rất nhiều người đã lao động có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi được pháp luật quy định là có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ, nhưng khả năng nhận thức của họ đã phát triển, vì vậy ngoài việc được thực hiện những giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, họ còn được phép thực hiện những giao dịch dân sự khác, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự nếu có tài sản. Vì vậy, việc pháp luật quy định khi gây ra thiệt hại thì những người này phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình là hoàn toàn hợp lý. Hơn nữa, quy định này cũng phù hợp với nhiều quy định pháp luật ở các bộ luật khác: theo quy định của Bộ luật lao động Việt Nam được sửa đổi, bổ sung năm 2006, thì họ đã có quyền tham gia vào các hợp đồng lao động và có tư cách tố tụng đối với những tranh chấp liên quan đến hợp đồng lao động đó. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, con từ đủ 15 tuổi cũng có những trách nhiệm nhất định để chăm lo đời sống gia đình, và nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Như vậy, người từ đủ 15 tuổi đã có thể có tài sản riêng, phần nào ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm, định đoạt được ý chí của mình khi tham gia vào các quan hệ dân sự phổ biến. Họ có một phần năng lực hành vi dân sự để chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình trước Tòa án, vì vậy pháp luật mới quy định về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại bằng tài sản riêng của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Trong trường hợp con đã đủ 15 tuổi nhưng chưa có tài sản riêng, hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu, vì người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi mặc dù khả năng nhận thức đã rất cao, nhưng vẫn chưa trưởng thành và vẫn còn cần sự giáo dục, quản lý của cha mẹ, dễ có những hành vi mà chưa lường hết được hậu quả. Vì vậy quy định này vừa nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại, vừa góp phần nâng cao trách nhiệm giáo dục con trong gia đình của cha, mẹ. 2.1.3.Với người bị mất năng lực hành vi dân sự Người mất năng lực hành vi dân sự khi gây thiệt hại mà có cha, mẹ thì cha mẹ của họ phải bồi thường thiệt hại đó. 2.2.Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người giám hộ Điều 58 BLDS quy định: “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi chung là người được giám hộ)”. Tuy nhiên, giám hộ ngoài việc thực hiện những nghĩa vụ theo luật định đối với người được giám hộ thì còn có trách nhiệm trong việc BTTH do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ gây ra. Người được giám hộ theo khoản 2 Điều 58 bao gồm: “a. Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế quyền của cha ,mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu; b. Người mất năng lực hành vi dân sự”. Như vậy chế định về người giám hộ là để nhằm mục đích bảo vệ pháp lý cho người chưa thành niên và người bị mất năng lực hành vi dân sự mà không còn cha mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự…Vì người giám hộ thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ nên họ cũng phải gánh chịu những trách nhiệm pháp lý trong khi thực hiện trách nhiệm giám hộ của mình, bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người được giám hộ gây ra. Người giám hộ cũng có tư cách là bị đơn dân sự trước Tòa án. Tương tự với người chưa thành niên, đối với những người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà vẫn còn cha, mẹ thì cha, mẹ cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự là những người đã hoặc chưa thành niên mà không thỏa mãn yếu tố nhận thức, tức là không có khả năng nhận thức hoặc làm chủ hành vi của mình như những người mắc bệnh tâm thần. Do vậy họ không thể hiểu ý nghĩa, hậu quả cho những hành vi của mình, và không phải chịu trách nhiệm do những hành vi của mình gây ra. Vì vậy cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường thiệt hại khi con gây thiệt hại. Vì pháp luật quy định người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa tới 18 tuổi có quyền có giám hộ đương nhiên hoặc giám hộ cử, nên nhưng người này cũng có thể có người giám hộ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 58 BLDS. Nhưng khác với người mất năng lực hành vi dân sự và người dưới 15 tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLDS là bắt buộc phải có người giám hộ, những người đã đủ 15 tuổi không bắt buộc phải có người giám hộ do họ có khả năng nhận thức cao hơn và đã có khả năng lao động. Theo khoản 3 Điều 606 BLDS nêu trên, nếu họ có người giám hộ thì khi người được giám hộ gây thiệt hại, người giám hộ có quyền dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường. Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thiệt hại thì người giám hộ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình. Nếu như người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Mặc dù pháp luật không quy định, nhưng nếu người được giám hộ gây thiệt hại mà không có tài sản riêng để bồi thường và người giám hộ lại chứng minh được họ không có lỗi thì thiệt hại được coi là rủi ro và người bị thiệt hại phải gánh chịu. Đây là trường hợp căn cứ xác định người giám hộ là người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ không xác định được; hoặc cha, mẹ là người mất năng lực hành vi dân sự mà cũng có người giám hộ, và người giám hộ lại chứng minh được họ không có lỗi thì thiệt hại được coi là rủi ro và người bị thiệt hại phải gánh chịu. Yêu cầu bồi thường không thể thực hiện được. 2.3.Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý Xuất phát từ nhận thức còn hạn chế (người dưới 15 tuổi) hoặc không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (người mất năng lực hành vi dân sự), do đó Điều 621 BLDS quy định : “1.Người dưới 15 tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra. 2.Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra”. Khi người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự đang trong thời gian chịu sự quản lý của trường học, bệnh viện, tổ chức khác thì trường học, bệnh viện cũng như các tổ chức này phải có trách nhiệm quản lý, theo dõi những người mà mình quản lý. Có sự khác biệt của quy định này so với BLDS 1995 đó là: trong trường hợp người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời gian quản lý của trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì cha, mẹ và các tổ chức này liên đới bồi thường thiệt hại. Vậy quy định tại Điều 621 BLDS năm 2005 là nhằm buộc trường học, bệnh viện, các tổ chức phải tăng cường công tác quản lý người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, pháp luật quy định xét trách nhiệm của nhà trường,
Luận văn liên quan