Đề tài Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xét dưới góc độ công bằng xã hội

Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm về nhận thức mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế. Sau đại hội Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới: Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, mô hình kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế phổ biến và có hiệu quả nhất trong việc phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nó được vận dụng ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Trong quá trình vận dụng mô hình này chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng cũng có những khó khăn, những vấn đề gặp phải cần được giải quyết, trong đó có vấn đề về đảm bảo công bằng xã hội. Tại Đại hội lần thứ VIII (1996) Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”( ). Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội là hai mục tiêu rất quan trọng của sự phát triển bền vững mà nhiều nền kinh tế đều mong muốn đạt tới. Tuy vậy, trên thực tế, đây là bài toán khó mà không phải lúc nào cũng có thể đưa ra lời giải thỏa đáng. Bởi lẽ để biến mục tiêu đó thành hiện thực thì phải có hàng loạt điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết, phải giải quyết nhiều mối quan hệ có lúc là mâu thuẫn với nhau trong một mô hình kinh tế cụ thể.

doc17 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2125 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xét dưới góc độ công bằng xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm về nhận thức mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế. Sau đại hội Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới: Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, mô hình kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế phổ biến và có hiệu quả nhất trong việc phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nó được vận dụng ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Trong quá trình vận dụng mô hình này chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng cũng có những khó khăn, những vấn đề gặp phải cần được giải quyết, trong đó có vấn đề về đảm bảo công bằng xã hội. Tại Đại hội lần thứ VIII (1996) Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”(). Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội là hai mục tiêu rất quan trọng của sự phát triển bền vững mà nhiều nền kinh tế đều mong muốn đạt tới. Tuy vậy, trên thực tế, đây là bài toán khó mà không phải lúc nào cũng có thể đưa ra lời giải thỏa đáng. Bởi lẽ để biến mục tiêu đó thành hiện thực thì phải có hàng loạt điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết, phải giải quyết nhiều mối quan hệ có lúc là mâu thuẫn với nhau trong một mô hình kinh tế cụ thể. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG 1. Kinh tế thị trường. 1.1 Khái niệm kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Như vậy, chứng tỏ không có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế đó. 1.2 Bản chất của kinh tế thị trường ở nước ta. 1.2.1 Nền kinh tế thị trường đang hình thành và phát triển Thứ nhất, trong thời gian qua, kết cấu hạ tầng được đầu tư với mức độ ngày càng tăng. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình độ thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất còn thấp. Thứ hai, cơ cấu kinh tế đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, còn mất cân đối và kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển; sự phân công hiệp tác, chuyên môn hóa sản xuất chưa rộng, chưa sâu, giao lưu hàng hóa còn nhiều hạn chế . Thứ ba, chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Trong những năm qua thị trường của nước ta đang trong quá trình hình thành và phát triển nên nó còn ở trình độ thấp. Dung lượng thị trường nhỏ hẹp, cơ cấu và các yếu tố kinh tế thị trường hình thành chưa đầy đủ. Chưa có thị trường sức lao động theo đúng nghĩa, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học và công nghệ còn phát triển chậm. Thứ tư, công cuộc đổi mới ở nước ta trong 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Một trong những thành tựu quan trọng nhất là kinh tế tăng trưởng khá nhanh, GDP bình quân đầu người liên tục tăng. Song, thực tế cho thấy thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người còn thấp, do đó sức mua hàng hóa còn thấp, tỷ suất hàng hóa chưa cao. 1.2.2 Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hóa tuy có bản chất kinh tế khác nhau, nhưng chúng đều là những bộ phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung - cầu, tiền tệ, giá cả chung. Mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng nên bên cạnh tính thống nhất của các thành phần kinh tế, chúng còn có sự khác nhau và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Cùng với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, Nhà nước ta phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn và hạn chế những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực, hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng, vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất là Nhà nước phải quan tâm tạo điều kiện củng cố, phát huy hiệu quả, ra sức xây dựng khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh để làm tốt vai trò chủ đạo, tránh nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2.3 Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế "mở". Cơ cấu kinh tế "mở" bắt nguồn từ sự phân bố không đều về tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển không đều về kinh tế, kỹ thuật giữa các nước, đáp ứng yêu cầu quy luật phân công và hợp tác lao động quốc tế. Vì vậy, trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia muốn phát triển toàn diện cần phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. 1.2.4 Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta, làm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn trước đây, cũng như khác với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cũng chính là mô hình kinh tế khái quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mô hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng, làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. 2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế – xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội. 3. Phân phối theo lao động. C.Mác chỉ ra rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội, sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta trong các quỹ xã hội.() 4. Tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội. 4.1 Tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội là một khái niệm phản ánh sự vận động của xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, là sự vận động của xã hội loài người từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn, hoàn thiện hơn, cả về cơ sở hạ tầng kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và các hình thái ý thức xã hội. Lịch sử loài người nói chung bao giờ cũng vận động theo hướng tiến bộ, mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một nấc thang của tiến bộ xã hội.() Cái đích hướng tới của tiến bộ xã hội phải là con người, là sự phát triển toàn diện của con người. 4.2 Công bằng xã hội. Công bằng xã hội là một khái niệm có tính lịch sử và có nội hàm khác nhau ở các chế độ xã hội khác nhau. () Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ yếu nói về công bằng xã hội thể hiện tập trung ở chế độ phân phối theo lao động dưới chủ nghĩa xã hội. Còn về chế độ phân phối trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì tại Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Ngày nay, “công bằng xã hội” được hiểu không chỉ giới hạn ở công bằng về kinh tế-mặc dù đây vẫn là yếu tố nền tảng- mà còn là công bằng trong các lĩnh vực chính trị, pháp lý, văn hoá, xã hội…. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh cụ thể của mỗi người khác nhau, cho nên việc tạo điều kiện cho mọi người, nhất là những người trong hoàn cảnh khó khăn, đều có thể tiếp cận một cách công bằng các cơ hội phát triển, các nguồn lực phát triển, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục, y tế, việc làm, thông tin … mang tính an sinh xã hội luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là tạo điều kiện để ai cũng được học hành; người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ có cơ hội học tập; phát triển các trường phổ thông nội trú dành cho con em đồng bào dân tộc thiểu số; có chính sách hỗ trợ đặc biệt đối với những học sinh có năng khiếu nhưng hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở bậc cao. Thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực y tế là bảo đảm cho sức khoẻ mọi người dân được chăm sóc và bảo vệ, quan tâm chăm sóc sức khoẻ những người có công với nước; những người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, chũng ta cần lưu ý rằng công bằng xã hội không có nghĩa là “cào bằng”, thực hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều cho mọi người các nguồn lực và của cải do xã hội làm ra, bất chấp chất lượng, hiệu quả của sản xuất kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người cho sự phát triển chung của cộng đồng. 4.3 Tiến bộ xã hội và công bằng xã hội. Công bằng xã hội là động lực của tiến bộ xã hội, công bằng xã hội không chỉ gắn với nội dung phát triển kinh tế mà còn phải gắn với nội dung phát triển xã hội, công bằng xã hội tạo điều kiện cho mỗi cá nhân sử dụng và phát huy cao nhất năng lực của mình, thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ xã hội. Bên cạnh đó, công bằng xã hội cũng chính là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội. Trình độ của công bằng xã hội đạt được trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định chính là thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội tương ứng với thời kỳ lịch sử ấy. 4.4 công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Khi xem xét khái niệm công bằng xã hội chúng ta cần lưu ý không được đồng nhất công bằng xã hội với bình đẳng xã hội. Thực ra, đây là hai khái niệm khác nhau. Nói tới bình đẳng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về một (hoặc một vài) phương diện xã hội nào đó, chẳng hạn về kinh tế, chính trị, văn hoá... Còn công bằng xã hội lại là một khái niệm mang tính lịch sử, bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Có thể nói, mỗi xã hội đều có chuẩn mực riêng của mình về công bằng xã hội, chuẩn mực đó do hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của xã hội đó quy định. 4.5. Tăng trưởng kinh tế. Tăng tưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định và thường được đo bằng một số đại lượng, trong đó GDP (tổng sản phẩm quốc nội) và GNP (tổng sản phẩm quốc dân) là những thước đo thường được sử dụng nhất. 4.6 mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội có mối tương tác khá đặc biệt. Tăng trưởng kinh tế đem lại những giá trị vật chất to lớn chính là điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nếu không có những điều kiện kinh tế tối thiểu được đảm bảo thì tiến bộ và công bằng xã hội rất khó được thực hiện. Kinh tế càng phát triển, càng có điều kiện thuận lợi hơn để hoạch định và thực thi các chính sách về công bằng xã hội. Ngược lại, tiến bộ và công bằng xã hội có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nhờ khả năng có thể tạo ra một xã hội hoà hợp, lành mạnh và ổn định – một xã hội mà mỗi cố gắng, mỗi đóng góp đều được đánh giá một cách thoả đáng. Tiến bộ và công bằng xã hội có thể tạo ra một xã hội hài hoà giữa những lợi ích cá nhân và cộng đồng. Tiến bộ và công bằng xã hội, trên thực tế, vừa là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn định xã hội, vừa là một động lực để tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, cần phải dựa vào tiến bộ và công bằng xã hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời phải kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Có như thế mới vừa đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. 5. Công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN xét trên mối quan hệ của quan hệ sản xuất. CHƯƠNG II NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA XÉT DƯỚI GÓC ĐỘ CÔNG BẰNG XÃ HỘI. 1. Một số thước đo về công bằng xã hội. 1.1. Thước đo đánh giá mức độ bất bình đẳng trong thu nhập. Đây là một trong những thước đo quan trọng trong việc đánh giá CBXH. Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia, sau một thời gian mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế rõ rệt nhưng đời sống của nhiều người dân vẫn ở mức nghèo khổ, thất nghiệp gia tăng và ở một số nước số đông người dân không được hưởng thành quả do tăng trưởng đem lại trong khi nhóm người giàu có vẫn tiếp tục giàu lên. Một trong những chỉ số đo mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập là hệ số Gini. Trong thực tế hệ số Gini thay đổi trong phạm vi hẹp từ 0,2 đến 0,65. Theo Ngân hàng Thế giới, hệ số Gini tốt nhất thường xoay quanh mức 0,3. Đây là mức thể hiện sự bình đẳng cao trong phân phối thu nhập. 1.2 Thước đo đánh giá mức độ nghèo khổ. Việc phân chia các nhóm dân cư giàu nghèo theo hệ số Gini được coi là đánh giá sự giàu nghèo một cách tương đối theo tương quan xã hội. Tổ chức ESCAP (ủy ban kinh tế và xã hội của Liên hiệp quốc tại Châu Á & Thái Bình Dương) đã cho rằng: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. như vậy, tiêu chuẩn đánh giá sự giàu nghèo giữa các vùng có sự khác nhau. 1.3 Chỉ số đánh giá mức độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người. Đối với một đất nước, để đo nhu cầu cơ bản của con người có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu cơ bản là: ( Các chỉ tiêu phản ánh mức độ chăm sóc sức khỏe: tuổi thọ bình quân, số người dân trên một bác sỹ, số trạm xá bệnh viện, tỷ lệ đầu tư công cộng cho sức khỏe trong tổng đầu tư công cộng của Chính phủ. Chúng ta đặc biệt quan tâm các chỉ tiêu trên ở các khu vực khó khăn, vùng sâu, vùng xa. ( Các chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hóa giáo dục: tỷ lệ số người biết chữ, tỷ lệ phổ cập giáo dục, số trường học, đầu tư cho giáo dục của Nhà nước. Chúng ta cũng đặc biệt quan tâm đến mức độ đầu tư cho giáo dục ở các vùng khó khăn và các cơ hội tiếp cận giáo dục của người nghèo. 1.4 Chỉ số phát triển con người. Đây là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện mức độ phát triển con người do Liên Hợp Quốc đưa ra. Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng là một thước đo quan trọng trong việc đánh giá công bằng xã hội, nó thể hiện mức độ đầu tư của nhà nước cho việc phát triển con người và cơ hội phát triển công bằng của mọi tầng lớp trong xã hội. Chỉ tiêu này được kết hợp từ ba yếu tố: Chỉ tiêu tuổi thọ bình quân, chỉ tiêu trình độ giáo dục và chỉ tiêu GNP/người. 2. Vấn đề công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là, khi bàn về công bằng xã hội thì vấn đề cốt lõi là phải tìm ra được và giải quyết được sự cân bằng giữa công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế. Tại Đại hội lần thứ VIII (1996), Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”. Tăng tưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định và thường được đo bằng một số đại lượng, trong đó GDP (tổng sản phẩm quốc nội) và GNP (tổng sản phẩm quốc dân) là những thước đo thường được sử dụng nhất. Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về lượng (quy mô sản lượng) của một nền kinh tế nào đó, tính trong thời gian nhất định. Vì vậy, bản thân khái niệm này thường làm nảy sinh câu hỏi: liệu việc tăng lên về lượng có thể dẫn đến sự thay đổi về chất hay không? ( Tăng trưởng kinh tế, đương nhiên, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh suy của một quốc gia. Vì vậy, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn lực của mình cho tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải quyết mọi vấn đề khác như nâng cao mức sống của người dân, tăng cường phúc lợi xã hội, giảm bớt tình trạng thất nghiệp, đảm bảo cho mọi người có công ăn việc làm ổn định, v.v.. ( Dưới góc độ công bằng xã hội: thì không nhất thiết phải giàu có mới có thể thực hiện công bằng xã hội. Hơn nữa, càng chưa giàu có, càng nghèo khó lại càng phải thực hiện công bằng, nếu muốn tạo ra bầu không khí hoà thuận, tin tưởng lẫn nhau, nếu muốn giữ gìn cho xã hội được ổn định. ( Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế nhanh trong điều kiện cơ chế thị trường đã làm cho bảng giá trị của xã hội, trong một số trường hợp, biến động theo chiều hướng tiêu cực. Bất công xã hội có nguy cơ tăng lên. Những hành vi phản văn hoá, những biểu hiện của lối sống thực dụng theo chiều hướng quay lưng lại với những giá trị truyền thống... đã nảy sinh trong đời sống xã hội. Trong các vấn đề xã hội cần quan tâm thì công bằng xã hội là một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất. Kinh tế càng tăng trưởng thì vấn đề công bằng xã hội càng được đặt ra một cách bức xúc. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương đúng đắn và trên thực tế, đã và đang giải quyết những vấn đề nổi cộm một cách có hiệu quả. 3. thực trạng về công bằng xã hội tại Việt Nam. 3.1 Những thành tựu đã đạt được. Thực tiễn đổi mới của Việt Nam hơn 20 năm qua đã cho thấy, chính việc thực hiện các nguyên tắc phân phối ngày càng công bằng này đã có tác dụng lôi cuốn mọi người tham gia sản xuất, kinh doanh và đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước nhu cầu bức bách phải thu hút vốn đầu tư để có điều kiện mở rộng sản xuất thì ngoài phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và nguồn lực khác phải được coi là công bằng. Đây chính là quan niệm mới về sự thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. ( Rút kinh nghiệm từ những bài học đắt giá trong việc hoạch định chính sách phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã chủ trương coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội; không chờ tới khi kinh tế phát triển cao rồi mới thực hiện các chính sách về công bằng xã hội, mà ngay từ khi bắt đầu tiến hành đổi mới đã phải kết hợp nhiệm vụ kinh tế với các nhiệm vụ xã hội, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới chính sách xã hội, coi đó là một phương thức để thực hiện công bằng xã hội. Thực tiễn trên đã chứng tỏ rằng, khi có chính sách xã hội đúng đắn đi liền với chính sách tăng trưởng kinh tế thì có thể khắc phục được những mặt
Luận văn liên quan