Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily sorbonne (Lilium regale) ở Bình Định

Hoa lily là một loài có giá trị kinh tế và giá trị thẩm mỹ cao, ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng. Hoa lily là một loại hoa đẹp, hiện là một trong số sáu loài hoa phổ biến và có giá trị nhất (hồng, cúc, phăng, lay ơn, đồng tiền, lily). Lily là một loài hoa mới phát triển gần đây, nhưng với vẻ đẹp quyến rũ của chúng và hương thơm thanh nhã nên được xem là một trong những loại hoa ưa chuộng nhất trên thế giới. Hiện nay có 300 giống khác nhau, chủ yếu phân bố ở vùng ôn đới và hàn đới (Bắc bán cầu), một số ít ở vùng núi cao nhiệt đới. Hoa lily là cây chịu rét khá, chịu nóng kém, ưa khí hậu mát ẩm, nhiệt độ thích hợp ban ngày là 20 -250C ban đêm là 120C. Như vậy, khí hậu nhiệt đới nước ta không thuận lợi nhiều cho sự sinh trưởng và phát triển của hoa lily (trừ một số vùng có khí hậu ôn đới). Đây cũng là những hạn chế chính trong việc chọn những loài phù hợp với điều kiện Việt Nam.[7] Bình Định là tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, điểm cực Bắc với tọa độ: 14o42' Bắc, 108o56' Đông, điểm cực Nam với tọa độ: 13o31' Bắc, 108o57' Đông; chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm 270C (tại Quy Nhơn), và tăng dần từ Tây sang Đông; lượng mưa trung bình 1750mm, độ ẩm 79% (Quy Nhơn) và giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, số giờ nắng 2.200 - 2.400 giờ/năm. Bình Định hình thành 3 tiểu vùng sinh thái có điều kiện khí hậu và đất đai khác nhau. Tiểu vùng sinh thái núi cao nằm ở phía Tây bắc của tỉnh, chịu ảnh hưởng lớn của khí hậu Tây Nguyên, có nền nhiệt độ thấp, lượng mưa và ẩm độ cao hơn so với đồng bằng (nhiệt độ trung bình tại Vĩnh Sơn 20,10C, lượng mưa 2090mm và độ ẩm trung bình 92%).Tiểu vùng trung du, vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, nhưng chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện khí hậu nhiệt đới rõ rệt. Tiểu vùng đồng bằng có nền nhiệt độ cao, cường độ ánh sáng lớn, lượng mưa tập trung theo mùa, mang đậm nét khí hậu nhiệt đới.[4] Qua các nghiên cứu của Viện rau quả Việt Nam, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (bộ môn Rau Hoa và Cây cảnh), trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, cho thấy có một số vùng đất trong nước và ở Bình Định có thể phát triển nghề trồng hoa này. Tuy nhiên, ở Bình Định chưa có nhiều công trình nghiên cứu về hoa lily ngoài công trình nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ. Tuy nhiên, việc tìm hiểu ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất hoa lily chưa được quan tâm nghiên cứu. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất hoa lily của bộ môn Rau Hoa và Cây cảnh (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ), chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily sorbonne (Lilium regale) ở Bình Định” nhằm xác định loại phân bón lá thích hợp cho sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily, bổ sung vào quy trình kỹ thuật, góp phần phát triển nghề trồng hoa lily của tỉnh Bình Định.

doc41 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5268 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily sorbonne (Lilium regale) ở Bình Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Hoa lily là một loài có giá trị kinh tế và giá trị thẩm mỹ cao, ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng. Hoa lily là một loại hoa đẹp, hiện là một trong số sáu loài hoa phổ biến và có giá trị nhất (hồng, cúc, phăng, lay ơn, đồng tiền, lily). Lily là một loài hoa mới phát triển gần đây, nhưng với vẻ đẹp quyến rũ của chúng và hương thơm thanh nhã nên được xem là một trong những loại hoa ưa chuộng nhất trên thế giới. Hiện nay có 300 giống khác nhau, chủ yếu phân bố ở vùng ôn đới và hàn đới (Bắc bán cầu), một số ít ở vùng núi cao nhiệt đới. Hoa lily là cây chịu rét khá, chịu nóng kém, ưa khí hậu mát ẩm, nhiệt độ thích hợp ban ngày là 20 -250C ban đêm là 120C. Như vậy, khí hậu nhiệt đới nước ta không thuận lợi nhiều cho sự sinh trưởng và phát triển của hoa lily (trừ một số vùng có khí hậu ôn đới). Đây cũng là những hạn chế chính trong việc chọn những loài phù hợp với điều kiện Việt Nam.[7] Bình Định là tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, điểm cực Bắc với tọa độ: 14o42' Bắc, 108o56' Đông, điểm cực Nam với tọa độ: 13o31' Bắc, 108o57' Đông; chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm 270C (tại Quy Nhơn), và tăng dần từ Tây sang Đông; lượng mưa trung bình 1750mm, độ ẩm 79% (Quy Nhơn) và giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, số giờ nắng 2.200 - 2.400 giờ/năm. Bình Định hình thành 3 tiểu vùng sinh thái có điều kiện khí hậu và đất đai khác nhau. Tiểu vùng sinh thái núi cao nằm ở phía Tây bắc của tỉnh, chịu ảnh hưởng lớn của khí hậu Tây Nguyên, có nền nhiệt độ thấp, lượng mưa và ẩm độ cao hơn so với đồng bằng (nhiệt độ trung bình tại Vĩnh Sơn 20,10C, lượng mưa 2090mm và độ ẩm trung bình 92%).Tiểu vùng trung du, vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, nhưng chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện khí hậu nhiệt đới rõ rệt. Tiểu vùng đồng bằng có nền nhiệt độ cao, cường độ ánh sáng lớn, lượng mưa tập trung theo mùa, mang đậm nét khí hậu nhiệt đới.[4] Qua các nghiên cứu của Viện rau quả Việt Nam, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (bộ môn Rau Hoa và Cây cảnh), trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên,…cho thấy có một số vùng đất trong nước và ở Bình Định có thể phát triển nghề trồng hoa này. Tuy nhiên, ở Bình Định chưa có nhiều công trình nghiên cứu về hoa lily ngoài công trình nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ. Tuy nhiên, việc tìm hiểu ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất hoa lily chưa được quan tâm nghiên cứu. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất hoa lily của bộ môn Rau Hoa và Cây cảnh (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ), chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily sorbonne (Lilium regale) ở Bình Định” nhằm xác định loại phân bón lá thích hợp cho sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily, bổ sung vào quy trình kỹ thuật, góp phần phát triển nghề trồng hoa lily của tỉnh Bình Định. 2. Mục tiêu của đề tài 2.1. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống hoa lily sorbonne ở Bình Định. 2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily nhằm xác định loại phân bón lá thích hợp mang lại năng suất và chất lượng cao cho hoa lily. 2.3. Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân bón lá đến hoa lily giống sorbonne trồng ở Bình Định. 3. Ý nghĩa của đề tài 3.1. Ý nghĩa khoa học Đề tài nhằm góp phần bổ sung thêm tài liệu về khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily sorbonne trên điều kiện sinh thái Bình Định. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài góp hoàn thiện quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa lily Sorbone, bước đầu xác định được loại phân bón lá có ảnh hưởng tốt đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily. Việc thử nghiệm tác động của phân bón lá trên giống cây trồng mới này cũng nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở địa phương. Ngoài ra, đề tài còn đẩy mạnh diện tích canh tác, tăng thu nhập cho người trồng hoa, góp phần xóa đói giảm nghèo ở Bình Định. Đồng thời qua quá trình nghiên cứu bản thân chúng tôi được nâng cao năng lực về chuyên môn, rèn luyện tác phong nghiên cứu khoa học và được tiếp cận thực tiễn tốt hơn. Phần I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Nguồn gốc và phân loại hoa lily 1.1.1. Nguồn gốc Lily là tên gọi chung của tất cả các cây loài lilium, họ liliaceae, bộ phụ của thực vật một lá mầm. Đặc trưng của loài này là thân ngầm dưới đất có rất nhiều vảy bao bọc lại nên người ta gọi là loài hoa bách hợp. Trung Quốc là nước có nhiều chủng loại lily nhất và cũng là trung tâm, nguồn gốc lily trên thế giới. Theo kết quả điều tra, ở Trung Quốc có khoảng 460 giống, 280 biến chủng (chiếm trên ½ tổng giống hoa lily trên thế giới), trong đó có 136 giống, 52 biến chủng do Trung Quốc tạo ra. Nhật Bản, Hàn Quốc  có 110 giống trong đó có 30 giống mang đặc trưng của nước này. Hà Lan có khoảng 320 giống, trong đó 80% là các giống do chính Hà Lan tạo ra.[7] 1.1.2. Phân loại Hoa lily (Lilium regale) là loài thực vật bậc cao có hệ thống phân loại như sau: Ngành Thực vật hạt kín (Angiospermatophyta) Lớp Loa kèn (Liliopsida) hay lớp Một lá mầm (Monocotyledoneae) Phân lớp Loa kèn (Liliidae) Liên bộ Loa kèn (Lilianae) Bộ Loa kèn (Liliales) Họ Loa kèn (Liliaceae) 1.2. Tình hình sản xuất hoa lily trên thế giới Năm 1997, Hà Lan có 356 ha lily, đứng thứ 2 trong tổng diện tích hoa cắt trồng bằng củ (sau Tuylíp). Sở dĩ hoa lily được phát triển mạnh trong những năm gần đây là do người Hà Lan đã tạo ra rất nhiều giống mới có hoa đẹp, chống chịu sâu bệnh tốt, năng suất cao. Ngoài ra còn do kỹ thuật điều khiển hoa phát triển nhanh có thể ra hoa quanh năm. Một nguyên nhân nữa là do có sự đầu tư cơ giới hoá trong việc trồng và chăm sóc đã làm giảm giá thành, vì vậy đã làm hiệu quả kinh tế từ việc trồng hoa lily cao hơn hẳn trước đây. Hiện nay, Hà Lan mỗi năm trồng 18.000 ha hoa lily, trong đó xuất khẩu 70%. Nhật Bản là nước có truyền thống dùng hoa cắt và cũng là một trong những nước tiêu thụ và nhập khẩu hoa cắt lớn nhất châu Á (mỗi năm khoảng 500 triệu USD). Nhật cũng là nước sản xuất hoa lớn, diện tích sản xuất hoa năm 1992 của nước này là 4.600 ha với 36.000 hộ, sản lượng đạt 900 tỷ Yên, trong đó hoa cúc chiếm vị trí thứ nhất, tiếp đó đến hoa hồng và hoa cẩm chướng, hoa lily đứng ở vị trí thứ 4, trong đó có 2 giống lily là Star-Gager và Casa-Blanca không những được ưa chuộng ở Nhật Bản mà còn nổi tiếng trên thế giới.[7] Những năm gần đây Hàn Quốc là một trong những nước phát triển nghề trồng hoa mạnh, lượng xuất khẩu hoa của Hàn Quốc lớn nhất khu vực Đông Bắc Á. Theo thống kê năm 2002, Hàn Quốc có 15.000ha trồng hoa với 12.000 người tham gia, giá trị sản lượng đạt 700 triệu USD, gấp 8 lần năm 1989, trong đó lily là loại cây có hiệu quả kinh tế cao nhất trong số các loại hoa ở Hàn Quốc. Kênia là nước sản xuất hoa chủ yếu ở châu Phi và là nước xuất khẩu hoa tươi lớn nhất châu lục này. Hiện nay, nước này có tới 3 vạn trang trại với hơn 2 triệu người trồng hoa, chủ yếu là hoa cẩm chướng, hoa lily, hoa hồng. Mỗi năm nước này xuất khẩu sang châu Âu 65 triệu USD trong đó riêng hoa lily chiếm 35%. Công nghệ sản xuất hoa lily cắt cành ở Đài Loan rất tiên tiến, trình độ canh tác còn cao hơn Hàn Quốc, chỉ kém Nhật Bản; năm 2001 nước này đã có 490 ha trồng lily, trong đó xuất khẩu lily cắt cành đạt 7,4 triệu USD. Hà Lan là nước có công nghệ tạo giống và trồng lily tiên tiến nhất hiện nay. Mỗi năm Hà Lan tạo ra từ 15-20 giống mới, sản xuất 1.315 triệu củ giống lily, cung cấp cho 35 nước khác nhau trên toàn thế giới. Ngoài các nước kể trên còn nhiều nước trồng lily lớn khác như: Italia, Mỹ, Đức, Mêhicô, Côlômbia, Israen...[7] 1.3. Tình hình sản xuất hoa lily ở Việt Nam Lily là loại hoa quí hiếm ở Việt Nam, hiện nay mới được trồng ở một số tỉnh thành phố có nghề trồng hoa phát triển như Đà Lạt, Tp.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng… So với các chủng loại hoa khác thì chủng loại hoa này chiếm tỷ lệ rất nhỏ cả về diện tích và số lượng. Đà Lạt là nơi hiện đang có diện tích trồng lily nhiều nhất so với các địa phương khác trên cả nước (chiếm khoảng 8% trong tổng diện tích trồng hoa), còn ở Hà Nội, Hải Phòng chỉ mới trồng mang tính chất thử nghiệm. Tình hình phát triển hoa lily ở Đà Lạt khá thuận lợi, một phần do thiên nhiên ưu đãi cho sự phát triển của các giống hoa nói chung và cho hoa lily nói riêng, một phần do kỹ thuật trồng lily của Đà Lạt tương đối cao nên hoa sinh trưởng phát triển khá tốt. Hiện nay, lily là một trong những loại hoa đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho một số công ty hoa ở Đà Lạt. Hoa lily cắt cành mới phát triển gần đây nhưng do có dáng đẹp, mùi thơm quý phái, màu sắc hấp dẫn, quanh năm có hoa, được rất nhiều người ưa chuộng do vậy nhu cầu tiêu dùng sẽ ngày càng cao. Hiện nay, ở Việt Nam lily được xếp vào loại hoa cao cấp, thường đắt gấp 10-15 lần so với các loại hoa cúc, hoa hồng, cẩm chướng, hồng môn, chỉ sau phong lan, địa lan. Vì bán được giá cao nên việc trồng lily đang thu hút lớn các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, chính vì thế nghề này rất có triển vọng phát triển. Thông thường hoa lily cắt cành được phân làm 3 loại. Loại thứ nhất từ 4 hoa trở lên có giá từ 25 - 30.000 đồng/cành; loại 2 có 3 hoa giá từ 20 - 25.000 đồng/cành và loại thứ 3 gồm 2 hoa giá từ 15 - 20.000 đồng/cành. Hoa trồng chậu có giá 100-150.000 đồng/chậu (3 cây/ chậu). Thời gian gần đây, Phân viện sinh học Đà Lạt lại có bước đột phá khi nghiên cứu sản xuất thành công củ giống hoa lily, có thể cung ứng cho thị trường với giá từ 3.000 – 5.000 đồng (tùy theo loại và màu sắc), chỉ bằng 1/3 hoặc 1/2 giá nhập ngoại.[2] Tiềm năng đất đai, khí hậu của Đà Lạt rất lý tưởng cho sự phát triển của hoa Lily mà ít nơi nào có được. Thời gian tới, nếu đầu tư sản xuất củ giống chất lượng cao, giá rẻ với qui mô hàng hóa ngay tại địa phương thì Đà Lạt có triển vọng trở thành trung tâm lớn sản xuất và xuất khẩu hoa lily. 1.4. Tình hình nghiên cứu hoa lily ở Việt Nam và Bình Định 1.4.1. Ở Việt Nam Theo Dự án “Xây dựng mô hình sản xuất và bảo quản một số giống hoa công nghệ cao có triển vọng xuất khẩu tại Vĩnh Phúc”, có nhiều giống hoa tham gia thí nghiệm, trong đó có 3 giống lily (Tiber, Sibera và Acapulco là giống đối chứng). Các biện pháp kỹ thuật mới được áp dụng: che chắn, sử dụng nhà lưới để sản xuất hoa có tác dụng làm cho cây sinh trưởng, phát triển tốt hạn chế tác động điều kiện thời tiết bên ngoài, hạn chế gió, làm cho hoa đỡ dập nát, hạn chế nắng gắt, hạn chế một số côn trùng gây hại, có thể trồng hoa trái vụ. Biện pháp tưới nước, sử dụng biện pháp tưới nước nhỏ giọt có tác dụng tránh được kết váng mặt đất, giảm sự bốc hơi nước qua bề mặt, do đó giảm được lượng muối kim loại trong đất bốc lên bề mặt đất, phân được trộn cùng một lúc, tập trung xung quanh vùng rễ, giảm tổn thất, tăng hiệu quả sử dụng phân bón, giảm ô nhiễm môi trường. Thời gian sinh trưởng của lily từ 83 – 91 ngày. Về chất lượng hoa: hoa lily chiều dài cành từ 81 – 89cm, đối chứng 93cm; đường kính cổ nụ hoa 6,3 – 6,6cm. Năng suất các giống hoa lily, với mật độ 9.000 củ/sào cho thu hoạch từ 8.550 – 8.820 cành hoa/sào (360m2). Thời gian bảo quản: Trong điều kiện bảo quản lạnh ẩm, lily 25 - 28 ngày, trong điều kiện bảo quản lạnh khô: lily 15 - 20 ngày. Hiệu quả kinh tế, hoa lily chỉ sau khi trồng 3 tháng 1 sào có thể cho thu hoạch 138,5 – 142,9 triệu đồng, đầu tư 86,5 triệu đồng. Tuy nhiên, đầu tư trồng hoa lily quá lớn, giống hoa phải nhập ngoại. Kết quả đề tài "Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất hoa Lily tại thành phố Thái Nguyên" (Mã số: B2006 TN03-12) do Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên thực hiện đã cho thấy: - Xử lý lạnh củ giống hoa lily ở nhiệt độ 120C trong thời gian 2 ngày trước khi trồng là thích hợp nhất làm củ nẩy mầm 100% và số nụ, số hoa /cây đạt cao nhất là 4,07hoa/cây. - Nghiên cứu chế độ chiếu sáng: che 50% ánh sáng khi trồng hoa lily vụ đông đã làm cho cây sinh trưởng tốt như: tăng chiều cao cây, tăng số nụ/cây, tăng số hoa/cây đạt cao nhất là 5,1 hoa/cây, đồng thời cho độ bền hoa cắt cắm cao hơn so với đối chứng từ 1-2 ngày. Thu lợi nhuận tăng 26,24 triệu đồng /sào so với đối chứng. - Sử dụng chế phẩm Atonik trong sản xuất hoa lily đã làm tỷ lệ hoa hữu hiệu đạt cao nhất là 97,65%, tăng tỷ lệ hoa loại 1 và thu lãi cao nhất 157,39 triệu đồng/sào. - Dùng phân bón lá Yogen N0.2 tuy có số hoa/cây không cao bằng dùng Vạn Niên Hồng nhưng có số hoa hữu hiệu và hoa loại 1cao nhất (93,36%) thu lãi cao nhất đạt 160,04 triệu đồng/sào tăng hơn đối chứng 22,16 triệu đồng/sào. - Nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh quy trình trồng hoa lily tại Thành phố Thái Nguyên đã thực hiện tại các mô hình sản xuất thử và đạt hiệu quả kinh tế cao.[4] Theo TS. Nguyễn Thị Lý, hai năm gần đây trên cơ sở hợp tác và liên kết với đơn vị bạn, các cán bộ khoa học của Viện Di truyền Nông nghiệp đã khảo sát, đánh giá và bước đầu tuyển chọn các giống hoa thu thập được, đối với lily có hai giống là LL4 và LL8. 1.4.2. Ở Bình Định Tại Bình Định việc sản xuất hoa còn đơn giản, chủ yếu là các loại hoa vùng nhiệt đới như: huệ, mai, cúc đại đoá, layơn, thược dược...trong đó mới chỉ có hoa huệ là tương đối đạt sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ (có xuất ra một số tỉnh nhưng quy mô, số lượng còn khiêm tốn); các loài hoa còn lại sản xuất và tiêu thụ phụ thuộc lớn vào điều kiện thời tiết, mùa vụ. Nhìn chung, những nghiên cứu hoa rau ở Bình Định còn quá ít; quy trình kỹ thuật trồng hoa còn nghèo nàn; chưa thu thập và tuyển chọn những giống hoa có chất lượng cao cho thị trường đặc biệt là hoa ôn đới; chưa ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất nên năng suất và chất lượng không đáp ứng yêu cầu tiêu dùng; vì thế nghề trồng hoa chưa phải là thế mạnh cho ngành nông nghiệp tỉnh, rất ít hộ nông dân sản xuất nghề này, mặc dù đây là ngành cho thu nhập cao hơn nhiều so với cây lương thực và cây thực phẩm. Tại Bình Định, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về hoa lily ngoài đề tài nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ “Nghiên cứu, thăm dò khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số loại cây rau, hoa ôn đới trên đất đỏ bazan xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Thạnh” 1.5. Đặc điểm sinh học 1.5.1. Đặc điểm thực vật học Lily là cây thân thảo lâu năm. Phần dưới mặt đất gồm thân vảy, rễ. Phần trên mặt đất gồm lá, thân, mầm hạt (một số không có mầm hạt). 1.5.1.1. Thân vảy Thân vảy là phần phình to của thân tạo thành. Trên đĩa thân vảy có vài chục vảy hợp lại vảy có hình cầu dẹt, hình trứng, hình trứng dài,....Thân vảy không có vỏ bao bọc. Màu sắc thân vảy thay đổi tùy theo loài và các giống khác nhau: màu trắng, màu vàng, màu đỏ cam, màu đỏ tím…,kích thước của thân vảy cũng tuỳ thuộc vào các loài giống khác nhau. Loại nhỏ chu vi 6cm, nặng 7-8 gam, loại to chu vi 24-25cm, nặng trên 100 gam, loại đặc biệt chu vi 34-35cm, nặng 350 gam. Độ lớn của thân vảy tương quan chặt chẽ với số nụ hoa. Ví dụ, giống lily thơm chu vi thân vảy là 12-14cm có 2-4 nụ, chu vi thân vảy là 14-16cm có trên 4 nụ. Các giống lai phương Đông và lai châu Á số nụ cũng tỷ lệ thuận với chu vi thân vảy... Vảy có hình elip, hình kim xoè ra, có đốt hoặc không có đốt. Mầm vảy to ở ngoài, nhỏ ở trong, là nơi dự trữ nước và dinh dưỡng của thân vảy, trong đó nước chiếm 70%, tinh bột chiếm 23%, một lượng nhỏ protêin, chất khoáng, chất béo. Độ lớn của thân vảy thường được đo bằng chu vi và trọng lượng của nó. Vảy nhiều và mập thì chất lượng giống tốt. Củ giống để trồng hoa thương phẩm nhất thiết phải là thân vảy đã được bồi dục, thường năm đầu chưa ra hoa, sang năm thứ 2 củ có chu vi từ 9cm trở lên mới ra hoa.[7] 1.5.1.2. Rễ Rễ lily gồm 2 phần rễ thân và rễ gốc. Rễ thân còn gọi là rễ trên, do phần thân mọc dưới đất sinh ra, có nhiệm vụ nâng đỡ thân, hút nước và dinh dưỡng, tuổi thọ của rễ này là một năm. Rễ gốc gọi là rễ dưới, sinh ra từ gốc thân vảy, có nhiều nhánh, sinh trưởng khỏe, là cơ quan chủ yếu hút nước và dinh dưỡng của lily, tuổi thọ của rễ này là 2 năm.[7] 1.5.1.3. Lá Lá lily mọc rải rác thành vòng thưa, hình kim, xòe hoặc hình thuôn, hình dải, đầu lá hơi nhọn, không có cuống hoặc cuống ngắn. Lá to hay nhỏ tùy thuộc vào giống, điều kiện trồng trọt và thời gian xử lý. Trên lá có từ 1-7 gân, gân giữa rõ ràng hơn, lá mềm có màu xanh bóng.[7] 1.5.1.4. Củ con và mầm hạt Đại bộ phận của lily có nhiều củ con ở gần thân rễ, chu vi mỗi củ từ 0,5-3 cm, số lượng củ con tùy thuộc vào giống và điều kiện trồng trọt. Một số giống địa phương và các giống lai tạo ở nách lá có mầm hạt hình cầu hoặc hình trứng, khi chín có màu tím, tối, chu vi mầm hạt từ 0,5-1,5 cm.[7] 1.5.1.5. Hoa Hoa lily mọc đơn lẻ, hoặc xếp đặt trên trục hoa, bao hoa hình lá, nhỏ. Hoa chúc xuống, vươn ngang hoặc hướng lên. Hình dáng hoa là căn cứ chủ yếu để phân loại lily. Đối với các giống thuộc loại hình loa kèn, 1/3 phía trước cong ngược lên; loại hình phễu 1/3 phía trước cong ngược ra; loại hình cái cốc, phía trước hơi cong; loại hình cầu cánh hoa 6 cái, hai vòng nối nhau do 3 vòng đài và 3 cánh tạo thành, màu sắc như nhau nhưng đài hoa hẹp hơn, cánh đều, gốc có tuyến mật. Rất nhiều giống lily ở gốc cánh có chấm màu tím, hồng...Nhị đủ 6 cái, giữa có cuống màu xanh nhạt. Trục hoa nhỏ, dài, đấu trục phình to, có 3 khía. Màu sắc hoa lily rất phong phú: trắng, phấn hồng, đỏ, vàng, vàng cam, đỏ tím, tạp sắc… Màu sắc lốm đốm có đen, đỏ thắm, đỏ tím, đen nâu... Phấn hoa có màu vàng hoặc đỏ cam, đỏ nâu, nâu tím… Các giống hoa lily phương Đông thường có hương thơm và đây là đặc điểm nâng cao giá trị của hoa.[7] 1.5.1.6. Quả Quả hình trứng dài, mỗi quả có vài trăm hạt, bên trong có 3 ngăn. Hạt hình dẹt, xung quanh có cánh mỏng, hình bán cầu, hoặc 3 góc, vuông dài. Độ lớn của hạt, trọng lượng hạt, số lượng hạt tùy theo giống ví dụ: giống L.coniolor hạt nhỏ, đường kính khoảng 5mm, mỗi gam có 700-800 hạt, giống L.henrgi, giống L.auratum hạt to, đường kính 12mm, mỗi gam có 170-180 hạt. Trong điều kiện khô, lạnh, hạt lily có thể bảo quản được 3 năm.[7] 1.6. Đặc điểm sinh trưởng, phát dục 1.6.1. Đặc điểm sinh trưởng thân Sự sinh trưởng phát dục của lily có thể chia ra các giai đoạn: phát triển trục thân, ra nụ, nở hoa, kết hạt, chết khô. Thân vảy vùi trong đất sau khoảng 2 tuần sẽ nảy mầm. Tuy nhiên trong trường hợp xử lý lạnh không đầy đủ hoặc gặp trời lạnh thời gian nảy mầm có thể kéo dài tới 5 tuần. Từ khi trồng tới khi ra nụ mất khoảng 6-9 tuần (tùy theo giống và điều kiện thời tiết). Từ khi ra nụ đến lúc nở hoa kéo dài 4-7 tuần. Các giống khác nhau có mức độ chênh lệch nhau khá lớn về thời gian, sinh trưởng của cây. Nhóm giống châu Á từ khi trồng đến khi ra hoa khoảng 12 tuần nhưng cũng có một số giống như Kinka, Lotus chỉ cần 11 tuần, Adelina, Yellow blage, cần đến 16- 17 tuần, cá biệt có giống chỉ cần 9 tuần như Dame Blanche, ngược lại giống Cassa Blanca cần đến 20 tuần. Trục thân của lily là do trục mầm dinh dưỡng co ngắn lại tạo ra. Trục thân chia ra trục thân sơ cấp và trục thân thứ cấp. Đầu trục sơ cấp chính và mầm dinh dưỡng co ngắn, trục thứ cấp nằm giữa mầm dinh dưỡng co ngắn và vảy có từ 1 đến 3 các lá trung tâm phát dục ra củ con đời sau. Có một số mầm lá, là vảy mới, quyết định đến sự hình thành củ con. Sau khi phá ngủ trục sơ cấp, ở trên mầm nách trục thân là vùng vươn dài thứ nhất, mầm đỉnh co ngắn, vươn lên mặt đất, lá trên bắt đầu mở ra, khi cây ra nụ thì số lá đã được cố định. Chiều cao cây quyết định bởi số lá và chiều dài đốt, số lá chịu ảnh hưởng của chất lượng củ giống, điều kiện và thời gian xử lý lạnh củ giống, thường số mầm lá đã được cố định trước khi trồng. Vì vậy, chiều cao cây vẫn chủ yếu quyết định bởi chiều dài đốt. Trong điều kiện ánh sáng yếu, ngày dài, nhiệt độ thấp và xử lý trước khi bảo quản lạnh lâu, đều có tác dụng kéo dài đốt thân. Ngược lại ánh sáng mạnh, ngày ngắn, nhiệt độ cao lại ức chế đốt kéo dài. Ở phạm vi nhiệt độ từ 20-300C nếu cứ tăng thêm 20C cây có thể thấp đi 2cm. Nắm được đặc tính này người ta có thể xử lý giờ chiếu sáng trước khi ra nụ khoảng 4-5 tuầ
Luận văn liên quan