Môi trường không khí đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa sống còn
để duy trì sự sống cho mọi sinh vật trên trái đất, trong đó có sự sống của con người.
Sức khỏe và tuổi thọ của con người phụ thuộc rất nhiều vào độ trong sạch của
môi trường không khí xung quanh. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển kinh tế ngày càng
cao như hiện nay thì những hoạt động như giao thôngvận tải, nhiều khu công nghiệp,
nhà máy sản xuất mọc lên là nguyên nhân chủ yếu gâyô nhiễm không khí ở các đô thị
lớn của nước ta, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM).
Vấn đề ô nhiễm không khí đã trở thành vấn đề bức xúc của nhân loại, thế nhưng
một “điểm nóng” về ô nhiễm không khí mà ít người để ý tới đó là ô nhiễm không khí ở
các tầng hầm giữ xe (ô tô, xe máy). Sự ô nhiễm này phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng
có thể chia ra thành 2 yếu tố chính đó là đặc điểm của tầng hầm (hệ thống thông gió,
kích cỡ, chế độ bảo dưỡng ) và yếu tố thứ hai là những phương tiện giao thông đỗ tại
tầng hầm (nhiên liệu sử dụng, tuổi thọ của xe, chế độ bảo dưỡng xe ). Thiếu hệ thống
thông gió, ít thông thoáng, các tầng hầm giữ xe là nơi có rất nhiều khí độc hại như: chì
(Pb), bụi hạt lơ lửng, cacbon oxit (CO), hydrocacbon(HC), sunfua dioxit (SO
2
), các
oxit nitơ (NO và NO
2
), ozon, và các phụ gia khác có trong nhiên liệu như benzen,
toluene, xylene,. Các khí này phát sinh từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch của các
loại xe cơ giới nói chung hay xe máy nói riêng, và theo như các nhà khoa học đã cảnh
báo các khí độc này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người, đặc biệt là những
người làm việc thường xuyên trong các tầng hầm xe, ngoài ra tầng hầm giữ xe còn là
nơi tích tụ khí radon, đây là khí rất độc và có khả năng gây ung thư cao.
Với mật độ giao thông dày đặc cùng sự phát triển củanhiều trung tâm thương
mại, nhà hàng thì việc xây dựng những tầng hầm giữ xe là giải pháp để có thể tiết
kiệm được diện tích đất vốn hạn hẹp, nhưng việc xây dựng những tầng hầm giữ xe như
thế nào để có thể đảm bảo những yếu tố về môi trườngthì đây là vấn đề đáng quan tâm.
Chương 1: Giới thiệu
Hoàng Thị Kiều Oanh 2
Vì vậy đề tài nghiên cứu ô nhiễm không khí ở một số tầng hầm giữ xe tại Tp.
HCM được tiến hành sẽ giúp chúng ta đánh giá rõ hơn nguyên nhân, nguồn gốc, mức
độ ô nhiễm cũng như đề xuất những giải pháp để giảmthiểu sự ô nhiễm không khí tại
nơi đây.
79 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6453 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng ô nhiễm không khí ở một số tầng hầm giữ xe (các trung tâm thương mại, trường học, nhà hàng…) tại Tp Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1: Giới thiệu
Hoàng Thị Kiều Oanh 1
Chương 1: GIỚI THIỆU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường không khí đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa sống còn
để duy trì sự sống cho mọi sinh vật trên trái đất, trong đó có sự sống của con người.
Sức khỏe và tuổi thọ của con người phụ thuộc rất nhiều vào độ trong sạch của
môi trường không khí xung quanh. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển kinh tế ngày càng
cao như hiện nay thì những hoạt động như giao thông vận tải, nhiều khu công nghiệp,
nhà máy sản xuất mọc lên là nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm không khí ở các đô thị
lớn của nước ta, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM).
Vấn đề ô nhiễm không khí đã trở thành vấn đề bức xúc của nhân loại, thế nhưng
một “điểm nóng” về ô nhiễm không khí mà ít người để ý tới đó là ô nhiễm không khí ở
các tầng hầm giữ xe (ô tô, xe máy). Sự ô nhiễm này phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng
có thể chia ra thành 2 yếu tố chính đó là đặc điểm của tầng hầm (hệ thống thông gió,
kích cỡ, chế độ bảo dưỡng …) và yếu tố thứ hai là những phương tiện giao thông đỗ tại
tầng hầm (nhiên liệu sử dụng, tuổi thọ của xe, chế độ bảo dưỡng xe…). Thiếu hệ thống
thông gió, ít thông thoáng, các tầng hầm giữ xe là nơi có rất nhiều khí độc hại như: chì
(Pb), bụi hạt lơ lửng, cacbon oxit (CO), hydrocacbon (HC), sunfua dioxit (SO2), các
oxit nitơ (NO và NO2), ozon, và các phụ gia khác có trong nhiên liệu như benzen,
toluene, xylene,... Các khí này phát sinh từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch của các
loại xe cơ giới nói chung hay xe máy nói riêng, và theo như các nhà khoa học đã cảnh
báo các khí độc này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người, đặc biệt là những
người làm việc thường xuyên trong các tầng hầm xe, ngoài ra tầng hầm giữ xe còn là
nơi tích tụ khí radon, đây là khí rất độc và có khả năng gây ung thư cao.
Với mật độ giao thông dày đặc cùng sự phát triển của nhiều trung tâm thương
mại, nhà hàng…thì việc xây dựng những tầng hầm giữ xe là giải pháp để có thể tiết
kiệm được diện tích đất vốn hạn hẹp, nhưng việc xây dựng những tầng hầm giữ xe như
thế nào để có thể đảm bảo những yếu tố về môi trường thì đây là vấn đề đáng quan tâm.
Chương 1: Giới thiệu
Hoàng Thị Kiều Oanh 2
Vì vậy đề tài nghiên cứu ô nhiễm không khí ở một số tầng hầm giữ xe tại Tp.
HCM được tiến hành sẽ giúp chúng ta đánh giá rõ hơn nguyên nhân, nguồn gốc, mức
độ ô nhiễm cũng như đề xuất những giải pháp để giảm thiểu sự ô nhiễm không khí tại
nơi đây.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng ô nhiễm không khí ở một số tầng hầm giữ
xe (các TTTM , trường học, nhà hàng…) tại Tp. HCM.
1.3. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các khí CO, SO2, NO2 , O3 có trong tầng
hầm giữ xe ở Tp. HCM.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số quận như quận 1, quận 3, quận 5 và
quận Gò Vấp.
1.4. .ội dung nghiên cứu
Xác định nồng độ các khí CO, SO2, NO2 , O3 có trong một số tầng hầm giữ xe
ở Tp. HCM
Đánh giá hiện trạng ô nhiễm không khí ở tại khu vực nghiên cứu, tìm hiểu
nguyên nhân và nguồn phát thải các chất ô nhiễm trong các tầng hầm giữ xe.
Đề xuất các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm.
Chương 2: Tổng quan
Hoàng Thị Kiều Oanh 3
Chương 2: TỔ.G QUA.
2.1. Tình hình ô nhiễm không khí ở Tp. HCM
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta, trong những năm qua đã có nhiều thành
công đáng kể, nhưng đi kèm với sự phát triển đó thì các hoạt động như giao thông vận
tải, sản xuất công nghiệp, xây dựng… đang gây sức ép lớn đến môi trường không khí
đô thị, đặc biệt tại Tp.HCM. Trong đó tạo áp lực lớn nhất đối với môi trường không
khí là hoạt động giao thông vận tải. Sự gia tăng nhanh chóng của các phương tiện cá
nhân, chủ yếu là xe máy ( 98% hộ dân ở Tp. HCM sở hữu xe máy ) trong khi vấn đề
chất lượng xe và nhiên liệu sử dụng lại chưa được đảm bảo, hạ tầng giao thông còn rất
nhiều hạn chế, đường chật hẹp, nhiều nút giao thông nên hiện tương ách tắc giao thông
càng trầm trọng, các xe phải luôn thay đổi tốc độ trên đường do đó làm gia tăng lượng
khí độc hại như CO, NOX, SO2, VOCs, các hợp chất chứa bụi, chì, khói và tiếng ồn.
Theo báo cáo chất lượng môi trường không khí tháng 4/2010 ở Tp. HCM cho
thấy ô nhiễm bụi gia tăng ( 88% giá trị quan trắc không đạt QCVN 05 : 2009/BTNMT,
có những thời điểm vượt QCVN tới 8.7 lần), nồng độ chì dao động từ 0.39-0.53µg/m3,
nồng độ NO2 dao động từ 0.14-0.22 mg/m
3 (35% số liệu quan trắc không đạt QCVN
05 : 2009/BTNMT và có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm trước và tháng 03/2010).
100% số liệu quan trắc CO đạt QCVN 05 : 2009/BTNMT, 63% số liệu quan trắc tiếng
ồn không đạt TCVN 5949 : 1998, dao động từ 65 - 86dB. Tại ngã tư An Sương, ngã
sáu Gò Vấp và ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên Phủ là các trạm có tỉ lệ số liệu
quan trắc không đạt QCVN cao nhất do mật độ xe lưu thông quá cao, chất lượng đường
giao thông và nạn kẹt xe liên tục xảy ra.
Như vậy, chất lượng môi trường không khí Tp.HCM đang ở mức báo động, thế
nhưng “điểm nóng” ô nhiễm không khí trong các tầng hầm giữ xe tại thành phố lại ít
được quan tâm và chú ý đến khi mà áp lực về phương tiện giao thông ngày càng nhiều ,
hoạt động xây dựng các tòa nhà cao tầng, TTTM…cũng như nhu cầu mua sắm, vui
chơi giải trí tại các TTTM, siêu thị … của người dân ngày một tăng cao.
Chương 2: Tổng quan
Hoàng Thị Kiều Oanh 4
2.2. Vấn đề ô nhiễm không khí ở tầng hầm giữ xe
Cùng với tốc độ đô thị hóa của thành phố thì nhu cầu xây dựng nhiều tòa nhà cao
tầng, các TTTM, nhà hàng, khách sạn diễn ra hết sức mạnh mẽ, và tầng hầm là giải
pháp hiệu quả, là không gian giải quyết được chỗ để xe, hệ thống kỹ thuật cũng như
cách Nm khá tốt cho tầng trên và tăng diện tích sử dụng đất hữu ích.
Tuy nhiên, do cấu trúc đặc thù của tầng hầm nên các chất ô nhiễm có trong tầng
hầm khó bị pha loãng hay thoát lên cao nhanh như bên ngoài, trong khi đa số các tầng
hầm lại chưa trang bị hệ thống thông gió đạt yêu cầu. Do đó dẫn đến tình trạng không
khí trong các tầng hầm giữ xe bị ô nhiễm.
Trên thế giới, vấn đề ô nhiễm không khí ở các tầng hầm giữ xe rất được quan
tâm và đã có nhiều nghiên cứu khảo sát về vấn đề này. Từ năm 1964, Trompeo và các
cộng sự đã tiến hành khảo sát 12 tầng hầm giữ xe tại Turin, Italy nhận thấy nồng độ
CO rất cao (98 ppm). N ăm 1967, Chovin tiến hành đo nồng độ CO tại tầng hầm giữ xe
ở Pháp, nồng độ CO dao động từ 80-100 ppm, các giá trị trên được ghi nhận trong điều
kiện hệ thống thông gió hoạt động rất yếu. Gold smith (1970) và Flachsbart et al. (1987)
cũng đã nhận thấy rằng bên trong tầng hầm giữ xe là nơi chứa các chất ô nhiễm với
nồng độ lớn (Flachsbart P.G., 1998).
Tại một tầng hầm giữ xe phía đông Baltimore, nghiên cứu nồng độ các chất khí
ô nhiễm liên quan đến các phương tiện giao thông như CO, pPAH, 1,3-butadiene,
toluene, benzene, ethylbenzene đã cho thấy nồng độ các khí gia tăng cùng với số lượng
xe có trong tầng hầm, những ngày trong tuần có nồng độ cao hơn ngày cuối tuần do số
lượng xe nhiều hơn (Sung R. Kim et al., 2007).
Ở trung tâm thành phố Beirut, tiến hành đo đạc tại 6 tầng hầm giữ xe (3 tầng
hầm ở cơ quan hành chính, 1 tầng hầm ở siêu thị, và 2 tầng hầm ở TTTM). Đối tượng
nghiên cứu là các chất ô nhiễm CO và VOC, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra nồng độ CO
và VOC cao nhất vào các giờ cao điểm ứng với tính chất hoạt động của từng nơi. Tầng
hầm cơ quan hành chính Hamra Square có nồng độ CO và VOC cao nhất (CO: 140
mg/m3, VOC: 9.7mg/m3) vào thời gian lúc 16h khi nhân viên đã kết thúc công việc
trong ngày, lấy xe ra về và hầu hết xe đều bắt đầu ở chế độ lạnh. Tại siêu thị nồng độ
Chương 2: Tổng quan
Hoàng Thị Kiều Oanh 5
cao nhất khoảng 90 mg/m3 vào giờ cao điểm từ 8h-12h (cuối tuần), 16h (trong tuần), và
TTTM nồng độ cao vào buổi trưa và tối (26 mg/m3-85 mg/m3) (EI Fadel et al., 2001).
Trong khi đó, ở nước ta việc đánh giá mức độ ô nhiễm không khí trong các tầng
hầm giữ xe lại chưa được chú ý nhiều, cũng như chưa có nghiên cứu nào tiến hành xác
định nồng độ các chất ô nhiễm có trong các tầng hầm giữ xe.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu và đánh giá hiện trạng ô nhiễm không khí trong các
tầng hầm giữ xe là rất cần thiết, để từ đó có những biện pháp khắc phục, giảm thiểu ô
nhiễm không khí nơi đây.
2.2.1. .guồn phát thải
- Phương tiện giao thông chính là nguồn phát thải chính ảnh hưởng lớn đến chất
lượng không khí ở tầng hầm giữ xe. Trong thời gian vừa qua, số lượng phương tiện
giao thông tăng lên nhanh và tập trung nhiều tại Tp. HCM, trong đó chiếm trên 91% là
xe máy, gần 300.000 xe ô tô các loại, đó là chưa kể đến số lượng xe do người ngoài
thành phố đến tạm trú mang theo ( Chi cục bảo vệ môi trường Tp. HCM, 2007) gây áp
lực rất lớn đến môi trường không khí. Sự phát thải của các phương tiện giao thông lại
phụ thuộc nhiều vào chất lượng xe. Xe máy và ô tô đã qua nhiều năm sử dụng, động cơ
lỗi thời cùng với hệ thống kỹ thuật không hiệu quả làm gia tăng sự phát thải nhiều chất
độc hại như: CO, N Ox, SO2, VOCs, HC, Pb, bụi…và có tiếng ồn lớn.
Sự phát thải các chất ô nhiễm từ các ngành công nghiệp vào trong khí quyển sẽ
được phát tán đi xa, trong khi đó sự phát thải các chất ô nhiễm từ các phương tiện giao
thông trong tầng hầm giữ xe lại tồn tại gần mặt đất, ít được phát tán. Do đó, trong các
tầng hầm giữ xe nếu như sự thông thoáng không thỏa đáng để pha loãng các chất ô
nhiễm trong tầng hầm ra bên ngoài thì việc gia tăng nồng độ các chất ô nhiễm sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến sức khỏe của nhiều người khi vào trong các tầng hầm giữ xe.
- Bên cạnh chất lượng phương tiện giao thông thì vấn đề nhiên liệu sử dụng cho
những phương tiện này cũng là nguyên nhân gây ra sự phát thải các khí độc hại trong
tầng hầm giữ xe. N hiên liệu mà xe sử dụng ảnh hưởng rất lớn đến thành phần khí thoát
ra, sử dụng nhiên liệu dầu diesel với một lượng sulfua cao làm gia tăng nồng độ SO2,
bụi so với sử dụng xăng và khí tự nhiên.
Chương 2: Tổng quan
Hoàng Thị Kiều Oanh 6
Cho đến trước ngày 1/7/2007 các phương tiện giao thông đường bộ nước ta vẫn
sử dụng nhiên liệu dầu diesel có hàm lượng lưu huỳnh là 0.25% (quy định chỉ sử dụng
diesel có hàm lượng lưu huỳnh là 0.05%) là nguyên nhân phát thải ra khí SO2. N goài ra
hàm lượng các chất phụ gia trong xăng dầu như chì, benzene… khi không được kiểm
soát chặt chẽ sẽ làm gia tăng các chất độc hại trong không khí, rất có hại cho sức khỏe
của con người (Báo cáo môi trường Quốc gia, 2007).
- N goài nguồn phát thải từ các phương tiện giao thông và nhiên liệu sử dụng thì
tầng hầm giữ xe còn là nơi tích tụ một loại khí rất độc đó là khí radon. Radon là khí
không màu, không mùi, không vị, có tính phóng xạ tự nhiên, thoát ra qua các vết rạn và
lỗ trống rất nhỏ trong các vật liệu xây dựng, sau đó khuếch tán vào không khí.
N hững kết quả nghiên cứu của Hiệp hội ung thư Mỹ cho thấy sự chiếu xạ lớn
nhất của radon là trong các tầng hầm thiếu sự thông thoáng của các công trình công
cộng như tầng hầm giữ xe.
2.2.2. Tác hại của ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con người, đặc biệt đối
với đường hô hấp. Theo thống kê của Bộ Y tế trong những năm gần đây các bệnh về
đường hô hấp có tỷ lệ mắc cao nhất trong toàn quốc, đặc biệt đối với những đô thị lớn
như Tp. HCM. Các sản phNm từ việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch do các phương tiện
giao thông phát ra như CO, hydrocacbons, N Ox, Pb, SO2, VOCs, PAH, bụi và một số
kim loại độc khác là tác nhân trực tiếp gây ra các bệnh như: viêm nhiễm đường hô hấp,
hen, lao, viêm phế quản mãn, ung thư.
Mỗi năm tại Mỹ, ung thư phổi có liên quan đến chiếu xạ radon được hiệp hội
ung thư Mỹ thống kê khoảng 20.000 người chết.
N hư vây, khi môi trường không khí bị ô nhiễm, sức khoẻ con người sẽ bị suy
giảm, quá trình lão hoá trong cơ thể bị thúc đNy, chức năng của phổi bị suy giảm, gây
bệnh hen suyễn, viêm phế quản, gây bệnh ung thư, bệnh tim mạch và làm giảm tuổi
thọ của con người (Báo cáo môi trường Quốc gia, 2007).
Chương 2: Tổng quan
Hoàng Thị Kiều Oanh 7
Mức độ ảnh hưởng các chất ô nhiễm này tùy thuộc vào tình trạng sức khoẻ của
từng người, nồng độ loại chất và thời gian tiếp xúc với môi trường ô nhiễm. Vì đối
tượng nghiên cứu của đề tài là các khí CO, SO2, N O2 và O3, do đó nghiên cứu này tập
trung vào tác hại của 4 khí vô cơ trên.
2.2.2.1. Tác hại của khí CO (Cacbon oxit):
CO là khí được sinh ra trong quá trình đốt cháy nhiên liệu không hoàn toàn của
động cơ đốt trong. N ồng độ CO xuất hiện cao ở những nơi có mật độ giao thông nhiều,
ngoài ra CO còn phát ra từ hoạt động công nghiệp, oxy hóa methan, phân hủy yếm khí
của thực vật trong đầm lầy.
CO là một loại khí độc không màu, không mùi, không vị, có phản ứng rất mạnh
với hồng cầu trong máu và tạo ra cacboxy hemoglobin (CoHb) làm hạn chế sự trao đổi
và vận chuyển oxy của máu đi nuôi cơ thể. Ái lực của CO đối với hồng cầu cao hơn
gấp 200 lần so với oxy. Hàm lượng COHb trong máu có thể làm bằng chứng cho mức
độ ô nhiễm khí cacbon oxit trong không khí xung quanh (Trần N gọc Chấn, 2000).
Hàm lượng CoHb trong máu từ 2-5% bắt đầu có dấu hiệu ảnh hưởng đến hệ
thần kinh trung ương. Khi hàm lượng CoHb trong máu tăng lên từ 10-20% các chức
năng hoạt động của các cơ quan khác nhau trong cơ thể bị tổn thương. N ếu hàm lượng
tăng đến > 60% tương ứng với nồng độ khí CO trong không khí =1000 ppm thì tính
mạng bị nguy hiểm và dẫn đến tử vong (Trần N gọc Chấn, 2000).
2.2.2.2. Tác hại của khí .O2 (.itơ dioxit):
N O2 là một nguồn quan trọng gây ô nhiễm không khí liên quan đến phương tiện
giao thông và cùng với VOCs hình thành nên sương mù quang hóa và ozone ở tầng đối
lưu. N O2 được hình thành như là sản phNm cuối cùng của quá trình đốt nhiên liệu trong
các loại động cơ đốt trong cũng như trong các lò nung do có sự oxy hóa trong không
khí của N O được tạo ra ở nhiệt độ cao.
Tác hại N O2 phụ thuộc vào nồng độ và thời gian tiếp xúc, thời gian tiếp xúc từ
6-8 tuần với nồng độ N O2 từ 50 - 100 ppm gây viêm cuống phổi và màng phổi.
Chương 2: Tổng quan
Hoàng Thị Kiều Oanh 8
N ồng độ N O2 từ 150 - 200 ppm với thời gian tiếp xúc từ 3-5 tuần gây viêm xơ
cuống phổi. N ồng độ N O2 từ 300- 400 ppm trong vòng 2-3 ngày tiếp xúc gây viêm
phổi và chết (Trần N gọc Chấn, 2000).
2.2.2.3. Tác hại của khí SO2 (Sunfua dioxit):
Khí SO2 là loại khí dễ hòa tan trong nước và được hấp thụ hoàn toàn rất nhanh
khi hít thở ở đoạn trên của đường hô hấp. N guồn gốc của SO2 từ đốt cháy nhiên liệu có
chứa S trong các nhà máy nhiệt điện, xe có động cơ, sự oxy hóa của H2S, hoạt động
của núi lửa ( trong đó nguồn từ tự nhiên chiếm gần 50% SO2 ).
Khi hít thở không khí có chứa SO2 với nồng độ thấp (1 - 5 ppm) xuất hiện sự co
thắt tạm thời các cơ mềm của khí quản. Ở nồng độ cao, SO2 gây xuất tiết nước nhầy và
viêm tấy thành khí quản, làm tăng sức cản đối với sự lưu thông không khí của đường
hô hấp (gây khó thở).
Khí SO2 có mùi hăng khét ngột ngạt, người nhạy cảm với khí SO2 nhận biết
được ở nồng độ 0.56 ppm (1.6 mg/m3). Còn người bình thường ít nhạy cảm với khí
SO2 thì nhận biết mùi của nó ở nồng độ từ 2-3 ppm (Trần N gọc Chấn, 2000).
2.2.2.4. Tác hại của khí O3 (ozone):
Ozone là khí được tạo thành một cách tự nhiên trong lớp khí quyển trên cao do
tác động của bức xạ tia cực tím trong ánh sáng mặt trời với oxi. Do khả năng hấp thụ
đối với các sóng ngắn của bức xạ tia cực tím nên O3 được xem là lá chắn bảo vệ trái
đất khỏi các tia này.
Ở tầng đối lưu nồng độ O3
khoảng từ 10 - 40 ppb ( tùy theo điều kiện thời tiết và
độ cao so với mặt biển), O3 là chất ô nhiễm thứ cấp trong chuỗi phản ứng khi xuất hiện
N Ox, VOCs dưới tác dụng ánh sáng mặt trời.
N ồng độ O3 từ 0.05 - 0.1 ppm sẽ gây ra kích ứng mũi họng, từ 0.3 - 1 ppm sẽ có
triệu chứng nhức đầu, khó thở, co thắt ngực. Khi tiếp xúc với nồng độ từ 1.5 - 2 ppm
giảm khả năng bão hòa oxihemoglobin và tổn thương hình thái hồng cầu, rối loạn thần
kinh. Phù phổi nếu tiếp xúc ở nồng độ rất cao 4 - 5 ppm, và dẫn đến tử vong nếu tiếp
xúc với nồng độ 50 ppm (Hoàng Văn Bính, 2002).
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Hoàng Thị Kiều Oanh 9
Chương 3: PHƯƠ.G PHÁP .GHIÊ. CỨU
Để thực hiện được những nội dung nghiên cứu trên, các phương pháp được sử
dụng trong nghiên cứu này gồm có:
Phiếu điều tra.
Đo đạc nồng độ các chất ô nhiễm có trong tầng hầm giữ xe ở Tp. HCM
(vị trí , thời gian và phương pháp đo đạc).
Xử lý số liệu
3.1. Phiếu điều tra
Để đánh giá hiện trạng ô nhiễm không khí ở một số tầng hầm giữ xe tại Tp.
HCM cũng như làm rõ hơn nguyên nhân gây ra sự ô nhiễm không khí tại nơi đây,
phương pháp nghiên cứu được thực hiện là thiết kế phiếu điều tra.
Phiếu điều tra sẽ được thiết kế dành cho hai đối tượng đó là những nhân viên
giữ xe, nhân viên bảo vệ làm việc trong các tầng hầm giữ xe và một số đối tượng khác
(những người gửi xe tại các tầng hầm đó).
N ội dung và số lượng các câu hỏi trong phiếu điều tra sẽ phụ thuộc vào đối
tượng được phỏng vấn. Đối với những nhân viên giữ xe, nhân viên bảo vệ ngoài những
thông tin cá nhân cần thu thập như họ tên, năm sinh, trình độ giáo dục, công việc hiện
tại.. và thông tin về nghề nghiệp (thời gian làm việc, kết thúc trong ngày…), thì phiếu
điều tra sẽ tập trung vào những thông tin quan trọng đó là thông tin về cấu trúc tầng
hầm giữ xe (diện tích, độ dốc, khoảng cách từ lối vào đến nơi đậu xe, hệ thống thông
gió…), thông tin về số lượng xe trung bình hàng ngày, cảm nhận về không gian tầng
hầm (sự thông thoáng…) và những nhận xét cũng như đánh giá hiện trạng môi trường
không khí tại nơi làm việc ( mức tốt, mức khá tốt, mức trung bình hay mức xấu…).
Riêng những đối tượng khác, số lượng câu hỏi sẽ tập trung chủ yếu vào những
nhận xét về không gian tầng hầm (sự thông thoáng) và cảm nhận về hiện trạng môi
trường không khí tại nơi gửi xe (mức tốt, mức khá tốt, mức trung bình hay mức xấu…).
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Hoàng Thị Kiều Oanh 10
Do giới hạn về thời gian nên số lượng mẫu điều tra sẽ mang tính đại diện, không
quá nhiều, trung bình từ 15-20 phiếu (tùy từng nơi).
Thời gian tiến hành điều tra sẽ trùng với thời gian đo đạc nồng độ các chất ô
nhiễm trong các tầng hầm giữ xe ở Tp. HCM.
3.2. Đo đạc nồng độ các chất ô nhiễm
N goài phương pháp thiết kế phiếu điều tra thì nghiên cứu còn sử dụng phương
pháp đo đạc nồng độ các chất ô nhiễm (CO, SO2, N O2 và O3 ) với nội dung xác định
nồng độ cụ thể của từng chất có trong các tầng hầm giữ xe.
Quá trình đo đạc nồng độ các chất ô nhiễm bao gồm xác định vị trí đo đạc, thời
gian đo đạc và phương pháp đo.
3.2.1. Vị trí đo đạc
N ghiên cứu sẽ tiến hành khảo sát nồng độ các chất ô nhiễm ở 3 nhóm tầng hầm
giữ xe tại Tp. HCM như sau:
.hóm 1: các TTTM tại TP. HCM gồm có TTTM N guyễn Kiệm- siêu thị
Big C (792 N guyễn Kiệm, quận Gò Vấp), TTTM N owzone (235 N guyễn
Văn Cừ, quận 1) và TTTM Parkson (35 - 45 Lê Thánh Tôn, quận 1).
.hóm 2: nhà hàng Callary (123 L ý Chính Thắng, quận 3).
.hóm 3: trường ĐH KHTN (227 N guyễn Văn Cừ, quận 5).
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Hoàng Thị Kiều Oanh 11
Hình 3.1: Các vị trí khảo sát tại Tp. HCM
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Hoàng Thị Kiều Oanh 12
.hóm 1: Các TTTM tại Tp. HCM
• TTTM .guyễn Kiệm- siêu thị Big C: Siêu thị Big C nằm gần ngã 6- Gò
Vấp, siêu thị có một tầng hầm với lối vào và lối ra khác nhau. Lối vào siêu thị tiếp giáp
với đường N guyễn Kiệm và lối ra giáp với đường Phạm N gũ Lão.
Có 5 vị trí đo đạc tại TH- siêu thị Big C như sau:
Vị trí 1: ngay tại lối vào tầng hầm giữ xe
Vị trí 2: tại nơi bấm vé xe
Vị trí 3: tại nơi đỗ xe của khách
Vị trí 4: tại nơi trả vé xe
Vị trí 5: lối ra tầng hầm.
Lối ra (VT5)
.ơi đỗ xe
(VT3)
.ơi trả vé
(VT4)
.ơi bấm vé (VT2)
Lối vào (VT1)
Hình 3.2 : Sơ đồ các vị trí đo đạc tại TH-siêu thị Big C
• TTTM .owzone: N owzone gồm hai tầng hầm là B1 và B2