Tính đến nay, toàn thành phố Hồ Chí Minh có tổng chiều dài đường 3.666
km với tổng số 3.584 tuyến đường. Trong đó các khu quản lý giao thông đô thị
quản lý 1.151 km đường, còn lại là do UBND quận huyện quản lý 2.515 km. Chiều
dài các trục đường chính và đường liên khu vực trong nội thành chiếm 19% tổng
chiều dài đường toàn thành phố.
a) theo chiều dài (km) b) theo diện tích (km2)
Hình 3.1 Cơ cấu phân cấp đường thành phố
3.1.1 Mạng lƣới đƣờng sá giao thông đối ngoại [22]
Thành phố Hồ Chí Minh nối với các tỉnh lân cận Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng
Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Long An chủ yếu bằng các tuyến quốc lộ. Ngoài ra từ
thành phố cũng có thể đi đến các địa phương lân cận bằng một số tuyến tỉnh lộ.
Điều kiện lưu thông trên mạng lưới đường này tương đối tốt.
Hệ thống đường trục đã hình thành gồm: hướng đông bắc (QL1 cũ, xa lộ Hà
Nội nối với quốc lộ 1A), hướng bắc và tây bắc (QL 13, QL 22, TL 15, TL 16),
hướng tây và tây nam (QL 1, TL 10), hướng đông (QL 50, LTL 25 và Nhà Bè-Duyên Hải).
11 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5799 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu đánh giá mạng lưới đường thành phố Hồ Chí Minh theo tiêu chí giao thông công cộng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
33
CHƢƠNG 3
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ MẠNG LƢỚI ĐƢỜNG SÁ
TPHCM THEO TIÊU CHÍ GTCC
3.1 Hiện trạng mạng lƣới đƣờng sá TPHCM
Tính đến nay, toàn thành phố Hồ Chí Minh có tổng chiều dài đường 3.666
km với tổng số 3.584 tuyến đường. Trong đó các khu quản lý giao thông đô thị
quản lý 1.151 km đường, còn lại là do UBND quận huyện quản lý 2.515 km. Chiều
dài các trục đường chính và đường liên khu vực trong nội thành chiếm 19% tổng
chiều dài đường toàn thành phố.
a) theo chiều dài (km) b) theo diện tích (km2)
Hình 3.1 Cơ cấu phân cấp đường thành phố
3.1.1 Mạng lƣới đƣờng sá giao thông đối ngoại [22]
Thành phố Hồ Chí Minh nối với các tỉnh lân cận Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng
Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Long An chủ yếu bằng các tuyến quốc lộ. Ngoài ra từ
thành phố cũng có thể đi đến các địa phương lân cận bằng một số tuyến tỉnh lộ.
Điều kiện lưu thông trên mạng lưới đường này tương đối tốt.
Hệ thống đường trục đã hình thành gồm: hướng đông bắc (QL1 cũ, xa lộ Hà
Nội nối với quốc lộ 1A), hướng bắc và tây bắc (QL 13, QL 22, TL 15, TL 16),
hướng tây và tây nam (QL 1, TL 10), hướng đông (QL 50, LTL 25 và Nhà Bè-
Duyên Hải).
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
34
Hình 3.2 Mạng lưới đường sá giao thông đối ngoại
Hiện nay đang xây dựng khép kín đường vành đai 2 bao gồm cả 2 cầu lớn
Phú Mỹ, Phú Định, xây dựng đường vành đai 1 đoạn Tân Sơn Nhất-Bình Lợi-nút
Kha Vạn Cân. Xây dựng đường vành đai 3 đoạn nút giao Tân Vạn-quốc lộ 22 và
đoạn từ quốc lộ 22 đến đường cao tốc Tp.Hồ Chí Minh-Trung Lương.
Xây dựng các tuyến đường cao tốc: Tp.Hồ Chí Minh-Trung Lương, Tp.Hồ
Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây.
Xây dựng tuyến đường bộ trên cao số 1: từ Trường Chinh-Cộng Hòa- dọc
theo kênh Nhiêu Lộc-Nguyễn Hữu Cảnh.
3.1.2 Mạng lƣới đƣờng sá chính nội đô [22]
Nhìn chung mạng lưới đường bộ của thành phố Hồ Chí Minh phát triển mất
cân đối và chưa được phân cấp theo chức năng. Trừ một vài khu vực được quy hoạch
cụ thể trước, đa số đều phát triển một cách tùy tiện thể hiện qua các khía cạnh như:
kích thước, khổ đường, lộ giới, vỉa hè… rất khác nhau ở từng khu vực.
Ở khu vực nội thành cũ, do được quy hoạch và phát triển từ lâu nên đã hình
thành được một mạng lưới dày đặc, đặc biệt tại các quận 1, 3, 5. Đối với khu vực
nội thành mới phát triển gồm 4 quận là Tân Bình, Gò Vấp, Phú Nhuận và Quận 8 có
rất ít các trục đường chính.
3.1.3 Mạng lƣới đƣờng hẻm chính
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
35
Thành phố có nhiều đường hẻm với chiều rộng rất khác nhau tập trung ở các
quận 10, 11, Tân Bình, Bình Thạnh . Hầu hết các quận nội thành đều có những con
đường, khu phố, đường hẻm nhỏ với nhiều bề rộng khác nhau, tạo thành một mạng
lưới hỗn tạp, gây rất nhiều khó khăn trong việc phòng chữa cháy, phòng chữa dịch
bệnh và nhất là đi lại gắn kết nhanh với hệ thống đường lớn ….
Điển hình như ở quận 10 là quận có mật độ dân số cao, tập trung đông dân
nhập cư từ nơi khác đến làm đủ mọi ngành nghề: lao động phổ thông, công nhân,
học sinh, sinh viên,…. sống tập trung ở các khu vực như xung quanh Ga Hòa Hưng,
khu vực ở đường Tô Hiến Thành, khu vực nhà thờ Nam Hòa trong cư xá Bắc Hải.
3.2 Đánh giá tính chất định hình của mạng lƣới
Các trục đường chính hiện nay ở thành phố được tổ chức theo kiểu mạng
xuyên tâm gồm 12 trục chính và phân bổ theo các hướng Đông Bắc – Tây Nam và
Tây Bắc – Đông Nam, đi xuyên qua thành phố. Nhìn chung, mạng giao thông
đường bộ của Tp.Hồ Chí Minh được tổ chức theo dạng mạng xuyên tâm, kết hợp
với dạng hình rẻ quạt và bàn cờ.
Trừ một vài khu vực được quy hoạch cụ thể từ trước, đa số đều phát triển
một cách tùy tiện thể hiện qua các khía cạnh như kích thước, khổ đường, lộ giới, vỉa
hè …. rất khác nhau từng khu vực. Ở một số quận cũ (quận 1, quận 3, một phần
quận 10, quận 5) hình thành khá rõ mạng ô bàn cờ thuận lợi cho giao thông.
Thành phố có trên 1440 nút giao cắt chủ yếu ở dạng giao nhau đồng mức
gồm 2 ngã bảy, 8 ngã sáu, 12 ngã năm, 961 ngã tư và 457 ngã ba), trong đó có
khoảng 120 nút quan trọng thuộc 75 đường phố chính và các trục giao thông đối
ngoại, năng lực thông qua thấp và đa số đều bị ách tắc ở giờ cao điểm hay khi có sự
cố. Hiện chỉ có 8 nút giao thông mới xây dựng là khác mức, chủ yếu ở các cửa ngõ
thành phố.
3.3 Đánh giá mật độ mạng toàn TPHCM và từng quận huyện
Mật độ đường phố là chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá qui mô của hệ thống
cơ sở hạ tầng một đô thị. Mật độ đường trung bình của thành phố đạt 0,902 km/km2
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
36
vào năm 2006. Cho đến năm 2008, mật độ đường trung bình của thành phố đạt 1,43
km/km
2
.
Tuy nhiên, mật độ đường trên địa bàn thành phố có sự chênh lệch với nhau
khá lớn giữa hai khu vực nội thành và ngoại thành: ở nội thành là 5,18 km/km2, khu
vực ngoại vi mới hình thành (quận 2, 7, 9, 12, Thủ Đức, Bình Chánh) đạt 1,91
km/km
2, ở ngoại thành (Nhà Bè, Hóc Môn) chỉ có 1,7 km/km2, khu vực nông thôn
(Củ Chi, Cần Giờ) đạt 1,38 km/km2 thấp hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn là 4 – 6
km/km
2
[Báo cáo tổng hợp qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố
Hồ Chí Minh đến năm 2010].
3.4 Đánh giá tiêu chí mạng lƣới theo diện tích đất
Đất dành cho giao thông bao gồm giao thông động (mạng lưới đường các
loại) và giao thông tĩnh (bến xe, bãi đậu) chiếm tỉ lệ rất thấp lại không đều trên địa
bàn toàn thành phố. Tổng diện tích đất dành cho giao thông là 27,01 km2 chỉ chiếm
1,29% diện tích đất tự nhiên của thành phố, trong khi đó tỉ lệ này ở nước ngoài là
18,5 - 25% [Báo cáo tổng hợp qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành
phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 ].
Tổng diện tích đường của toàn Tp.Hồ Chí Minh đạt 24,91km2 trên tổng diện
tích đất của toàn thành phố là 2.095 km2. Như vậy hệ số mật độ diện tích đường
trên diện tích đất của toàn thành phố chỉ đạt 0,012 km2/km2 bằng 1,2%, thấp hơn rất
nhiều so với tiêu chuẩn của một thành phố có quy mô lớn là 15%.
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
37
Hình 3.3 Bản đồ mật độ đường Tp.Hồ Chí Minh
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
38
Hình 3.4 Bản đồ mật độ diện tích đường/diện tích đất ở Tp.Hồ Chí Minh
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
39
Hình 3.5 Bản đồ mật độ diện tích đường/dân số ở Tp.Hồ Chí Minh
3.5 Đánh giá khả năng thông xe của các tuyến đƣờng chính
a) Bề rộng mặt đƣờng
Phần lớn các đường đều hẹp, chỉ có khoảng 14% số con đường có lòng
đường rộng trên 12m để có thể tổ chức vận chuyển hành khách bằng xe buýt được
thuận lợi; 51% số con đường có lòng đường rộng từ 7m đến 12m chỉ có thể cho các
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
40
xe ôtô con trong đó có xe mini-buýt lưu thông; 35% số con đường còn lại có lòng
đường rộng dưới 7m.
Trong 51% số con đường có bề rộng từ 7-12 m thì có 24,1% là do khu quản
lý giao thông đô thị quản lý còn lại 26,9% là do UBND quận huyện quản lý.
Trước tình hình như vậy, nên sử dụng các xe buýt loại nhỏ có diện tích
chiếm dụng mặt đường nhỏ hơn loại xe buýt lớn, có tính cơ động cao, có thể di
chuyển dễ dàng trong mạng lưới đường hẻm. Ngoài ra, xe buýt loại nhỏ còn có
chức năng quan trọng khác là khả năng nối kết, thu gom khách cho các xe buýt lớn.
b) Chất lƣợng mặt đƣờng
Hiện nay phần lớn đường giao thông trong thành phố đã được nâng cấp giúp
việc giao thông thuận lợi, giảm bụi bẩn và tiếng ồn. 58% các đường đã được trải bê
tông nhựa nóng, 39% trải bê tông nhựa thường, chỉ có 3% là đường cấp phối.
Tuy nhiên, tình trạng đào xới liên tục trên đường do việc lắp đặt, sửa chữa
các công trình ngầm như cáp quang, ống cấp nước, mạng dây điện, điện thoại, hệ
thống ống cấp gas ... làm cho chất lượng mặt đường xuống cấp rất nhanh, tình hình
giao thông bị cản trở, nạn kẹt xe, tai nạn phổ biến tại các con đuờng này vào giờ cao
điểm. Hiện nay thành phố vẫn chưa giải quyết được tình trạng ngập lụt vào mùa
mưa và triều cường và đây cũng là nguyên nhân gây ách tắc giao thông.
3.6 Đánh giá mạng lƣới hẻm chính và khả năng ứng dụng cho GTCC
Mạng lưới đường hẻm ở một số quận điển hình như quận Tân Bình có
56/190 con đường, quận 10 có 11/31 con đường có bề rộng lớn từ 7-12 m, quận 5
có 20/50 con đường và có bề rộng nhỏ hơn 7 m nên cần thiết phải xây dựng hệ
thống tuyến xe buýt thu gom nội quận sử dụng loại xe 12 chỗ len lỏi đưa khách ra
các tuyến xe buýt lớn.
Ngoài ra, còn có rất nhiều tuyến đường khác bị lâm vào tình trạng “thắt cổ
chai” do lòng đường bị chiếm dụng cho nhiều mục đích khác nhau như: làm nơi họp
chợ, nơi bán hàng ăn và nước giải khát, bãi đỗ xe xích lô, bến xe ôm,… càng làm
cho nạn ùn tắc giao thông diễn ra thường xuyên hơn.
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
41
3.7 Đánh giá khả năng thông xe một số nút giao thông chính
Sự ùn tắc đã xảy ra trên cả 2 làn xe, mặc dù 2 làn xe này ngược chiều nhau.
Đây là đặc điểm ùn tắc phổ biến của giao thông Tp.Hồ Chí Minh: xe cộ tràn lấn
sang các làn xe khác và tràn lên vỉa hè, thành một nút chai kín, không thể giải tỏa
được.
Hình 3.6 Ùn tắc giao thông ở vòng xoay Hàng Xanh Tp.Hồ Chí Minh
Vòng xoay được lập ra để không xảy ra ùn tắc vì các lọai xe sẽ đi theo các
vòng xuyến tùy theo tốc độ và chủng lọai xe. Tuy nhiên trong thực tế, vòng xoay
vẫn bị tắc ngay cả khi có đèn kiểm soát giao thông (một việc mà chỉ ở Việt nam mới
có). Nếu chiếu theo các tiêu chuẩn quốc tế thì ở Tp.Hồ Chí Minh, hầu như trên 90%
các đoạn đường, các giao lộ đều có xảy ra ùn tắc giao thông ở các giờ cao điểm.
Hình 3.7 Ùn tắc giao thông ở ngã tư Võ Thị Sáu – Nam Kỳ Khởi Nghĩa
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
42
Điển hình ở vòng xoay Hàng Xanh (hình 3.6) là cửa ngõ giao thông phía
Đông quan trọng bậc nhất của thành phố nhưng vào giờ cao điểm sáng và cao điểm
chiều thường xuyên xảy ra ùn tắc giao thông, kẹt xe nghiêm trọng nhiều giờ liền do
lưu lượng xe lưu thông trên đường vào lúc đó quá lớn, nhiều nhất là xe gắn máy di
chuyển rối loạn không theo tín hiệu điều khiển giao thông càng làm cho tình trạng
ách tắc trở nên nghiêm trọng hơn.
Ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Võ Thị Sáu cũng là một trong những điểm đen
của thành phố, thường xuyên xảy ra tình trạng kẹt xe vào các giờ cao điểm, do ở nút
giao thông này có lưu lượng phương tiện giao thông từ bên ngoài thành phố đổ vào
qua đường Võ Thị Sáu, còn đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa là đường nối kết sân bay
Tân Sơn Nhất với trung tâm thành phố. Hơn nữa, tại ngã tư này còn có sự hiện diện
của các rào chắn thi công làm cho diện tích lưu thông trên đường đã hẹp lại càng
chật chội hơn, cộng với việc lưu lượng phương tiện giao thông cao thì tình trạng kẹt
xe kéo dài là điều tất nhiên.
3.8 Đánh giá mạng lƣới đƣờng sá, mạng lƣới metro, tramway và khả
năng dùng cho xe buýt
Năm 2008, mật độ đường trung bình của thành phố là 1,43 km/km2, tuy
nhiên, mật độ trên địa bàn thành phố có sự chênh lệch với nhau khá lớn giữa hai
khu vực nội thành và ngoại thành
Đất dành cho giao thông thấp, chiếm 1,29% diện tích đất tự nhiên, diện tích
đất giao thông không đồng đều trên địa bàn toàn thành phố.
Kích thước mặt đường: phần lớn các đường đều hẹp, chỉ có khoảng 14% số
con đường có lòng đường rộng trên 12m để có thể tổ chức vận chuyển hành khách
bằng xe buýt được thuận lợi; 51% số con đường có lòng đường rộng từ 7m đến 12m
chỉ có thể cho các xe ôtô con trong đó có xe mini-buýt lưu thông
Hệ thống đường vành đai đã được hoạch định nhưng hầu hết chưa được xây
dựng, các trục hướng tâm đã và đang được cải tạo, nâng cấp tuy nhiên vẫn còn
thiếu.
Chương3 Đại học Bách Khoa TP.HCM
Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển mạng lưới tuyến xe buýt ở TP.HCM
43
Bảng 3.1 Các chỉ tiêu đánh giá giao thông Tp.Hồ Chí Minh
Tên chỉ tiêu Đơn vị Giá trị Tiêu chuẩn
Dân số triệu người 8,725
Diện tích TP km2 2.095
Tổng chiều dài đường km 3666
Tổng diện tích đường km2 24,91
Mật độ dân số người/km2 26.019
Diện tích đất cho giao thông
/diện tích đất
% 1,29 18,5 - 25
Mật độ đường
/diện tích đất
km/km
2
1,43 4 - 6
Mật độ diện tích đường/dân số m2/người 3,71
So với hệ thống giao thông năm 2020 đã quy hoạch thì mạng lưới hiện nay
cần phải có những phát triển sau:
Hệ thống giao thông đường bộ: cần cải tạo, nâng cấp một số trục
hướng tâm như quốc lộ 1K, tỉnh lộ 43, tỉnh lộ 12, tỉnh lộ 10, xây dựng đường
cao tốc Tp.Hồ Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây, xây dựng khép kín đường
vành đai 1, đường vành đai 2, xây dựng tuyến đường bộ trên cao số 1.
Mạng lưới metro-tramway: xây dựng thí điểm tuyến xe điện chạy trên
mặt đất Sài Gòn-Chợ Lớn-bến xe Miền Tây, huy động nguồn vốn để xây
dựng 1 hoặc 2 trong 4 đoạn tuyến metro ưu tiên. Dự báo đến năm 2020 dân
số thành phố sẽ đạt trên 10 triệu người, khi đó lưu lượng giao thông trên một
số trục đường chính sẽ đạt khoảng 16 – 26 ngàn lượt người/giờ/hướng có thể
thấy rằng cần xây dựng các loại hình vận chuyển khối lượng lớn như đường
metro, tramway, BRT.
Khả năng dùng cho xe buýt: tiến hành hoàn chỉnh mạng lưới đường
cơ sở, các đường hướng tâm, đường vành đai, đường xuyên tâm, đường cao
tốc, các đường phố chính cấp I, cấp II. Xây dựng các bến xe Miền Đông,
Miền Tây, An Sương mới, các nhà ga hành khách đi xe buýt và các bến bãi
cho xe buýt trong các quận nội thành.
Các số liệu chi tiết còn lại xin xem các phụ lục 3.1; 3.2; 3.3; 3.4; 3.5; 3.6