ĐẶT VẤN ĐỀ
Mang thai và sinh con là thiên chức tự nhiên, là niềm vui và hạnh phúc
của mỗi phụ nữ. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo tiềm ẩn về các biến chứng sản
khoa có thể xảy ra. Biến chứng sản khoa là những biến chứng gặp trong các
giai đoạn mang thai, chuyển dạ và trong thời kì hậu sản. Các biến chứng sản
khoa thường gặp là chảy máu sau sinh, nhiễm khuẩn, nhiễm độc thai nghén 
Các biến chứng sản khoa không những gây nguy hiểm cho thai nhi mà
còn đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người mẹ.
Trong biến chứng sản khoa, một chỉ số quan trọng phản ánh mức độ
nghiêm trọng là tỉ lệ tử vong mẹ. Tỷ lệ tử vong mẹ trên thế giới năm 2000 là
400/100.000 trẻ sinh ra sống [31]. Hiện nay trên thế giới mỗi năm có khoảng
500.000 bà mẹ tử vong do các nguyên nhân có liên quan đến thai sản, trong đó
99% xảy ra ở các nước đang phát triển [11]. Nguyên nhân hàng đầu của tử
vong mẹ là hậu quả và biến chứng do thai nghén hoặc do sinh đẻ.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 82 trang
82 trang | 
Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 4140 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu kết quả hồi sức tích cực một số biến chứng sản khoa tại bệnh viện Bạch Mai từ 1/2008 – 6/2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mang thai và sinh con là thiên chức tự nhiên, là niềm vui và hạnh phúc 
của mỗi phụ nữ. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo tiềm ẩn về các biến chứng sản 
khoa có thể xảy ra. Biến chứng sản khoa là những biến chứng gặp trong các 
giai đoạn mang thai, chuyển dạ và trong thời kì hậu sản. Các biến chứng sản 
khoa thường gặp là chảy máu sau sinh, nhiễm khuẩn, nhiễm độc thai nghén 
Các biến chứng sản khoa không những gây nguy hiểm cho thai nhi mà 
còn đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người mẹ. 
Trong biến chứng sản khoa, một chỉ số quan trọng phản ánh mức độ 
nghiêm trọng là tỉ lệ tử vong mẹ. Tỷ lệ tử vong mẹ trên thế giới năm 2000 là 
400/100.000 trẻ sinh ra sống [31]. Hiện nay trên thế giới mỗi năm có khoảng 
500.000 bà mẹ tử vong do các nguyên nhân có liên quan đến thai sản, trong đó 
99% xảy ra ở các nước đang phát triển [11]. Nguyên nhân hàng đầu của tử 
vong mẹ là hậu quả và biến chứng do thai nghén hoặc do sinh đẻ. 
Việt Nam là một nước đang phát triển có số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ 
cao. Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế năm 1995, tỷ lệ tử vong mẹ ở Việt 
Nam là 137/100.000 trẻ sinh ra sống [11], còn theo ước tính của Quỹ Nhi đồng 
Liên hiệp quốc (UNICEF) năm 2000, tỷ lệ tử vong mẹ ở Việt Nam là 
130/100.000 trẻ sinh ra sống [28]. Nguyên nhân chính gây ra tử vong mẹ ở 
Việt Nam là do các tai biến sản khoa. 
Tình hình mắc và tử vong do tai biến sản khoa ở nước ta trong những năm 
qua giảm không đáng kể. Do vậy, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh 
sản là một trong những mục tiêu được ngành y tế và toàn xã hội quan tâm. Trong 
đó hệ thống y tế có vai trò quyết định trong việc quản lý, theo dõi, phòng bệnh 
cũng như chẩn đoán và điều trị các khi các tai biến sản khoa xảy ra. 
2 
Khoa hồi sức tích cực bệnh viện Bạch Mai là nơi tiếp nhận rất nhiều các 
cấp cứu từ hầu như tất cả các chuyên khoa. Trong đó cấp cứu các tai biến sản 
khoa chiếm phần không nhỏ. Hầu hết các cấp cứu sản khoa tại đây đều rất nặng 
và đa dạng về mặt bệnh. Mặc dù có vai trò quan trọng trong mô hình bệnh tật 
của khoa hồi sức tích cực nhưng từ trước đến nay chưa có một nghiên cứu nào 
được thực hiện để đưa ra một cái nhìn đầy đủ về tình hình cấp cứu sản khoa 
thường gặp tại khoa này. 
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu 
kết quả hồi sức tích cực một số biến chứng sản khoa tại bệnh viện Bạch 
Mai từ 1/2008 – 6/2012” 
Với mục tiêu: 
1. Mô tả các hình thái biến chứng sản khoa thường gặp tại khoa hồi sức 
tích cực. 
2. Nhận xét kết quả điều trị các biến chứng thường gặp trên . 
3 
Chương 1 
TỔNG QUAN 
1.1. Tử vong mẹ và biến chứng sản khoa trên thế giới và tại Việt Nam 
1.1.1. Tình hình tử vong mẹ và biến chứng sản khoa trên thế giới 
Hiện nay trên thế giới mỗi năm có khoảng 500.000 phụ nữ tử vong có liên 
quan đến thai sản. Phần lớn do hậu quả hoặc những biến chứng liên quan đến 
thai nghén và nạo phá thai không an toàn [11], [29]. Không những thế, theo 
ước tính cứ một bà mẹ tử vong do thai sản thì có khoảng 30 bà mẹ khác bị đau 
yếu, mất sức lao động hoặc bị những tổn thương sinh lý do hậu quả của các 
biến chứng thai sản [29]. 
Theo số liệu thống kê về số tử vong mẹ năm 2000 của tổ chức y tế thế 
giới, quĩ nhi đồng liên hợp quốc, quĩ dân số liên hợp quốc thì số tử vong bà mẹ 
trên toàn thế giới là 529.000 bà mẹ. Tuy nhiên số tử vong mẹ khác nhau giữa 
các châu lục và có tới 99% là những người đang sống ở các nước đang và kém 
phát triển, đặc biệt là ở châu Phi (251.000 bà mẹ), châu Á (253.000 bà mẹ). Ấn 
Độ là nước có số bà mẹ tử vong cao nhất (136.000 bà mẹ), tiếp theo đó là 
Nigeria (37.000 bà mẹ), Paskistan (26.000 bà mẹ), Cộng hòa Côngô và 
Ethiopia (24.000 bà mẹ), Cộng hòa Tanzania (21.000 bà mẹ), Afghanistan 
(20.000 bà mẹ), Bangladesh (16.000 bà mẹ), Angola (11.000 bà mẹ), Trung 
Quốc (11.000 bà mẹ), Kenya (11.000 bà mẹ), Indonesia (10.000 bà mẹ) và 
Uganda (10.000 bà mẹ). Tổng số bà mẹ tử vong ở 13 nước này đã chiếm tới 
67% tổng số bà mẹ tử vong trên toàn thế giới năm 2000 [36]. 
Tỷ lệ tử vong mẹ trên 100.000 trẻ sinh ra sống (Maternal Mortality Rate) 
của thế giới là 400 và tỷ lệ này cũng có sự khác nhau giữa các quốc gia và các 
châu lục trên thế giới [28], đặc biệt là tỷ lệ này có sự khác biệt rất lớn giữa các 
4 
nước phát triển và đang phát triển. Theo số liệu của UNICEF năm 2000, tỷ lệ 
tử vong mẹ trên 100.000 trẻ sinh ra sống của các nước công nghiệp phát triển 
là 13, của các nước đang phát triển là 440 còn của các nước kém phát triển là 
890 [28]. 
Nguyên nhân tử vong mẹ có liên quan chặt chẽ với các BCSK và nguy cơ 
tử vong mẹ do BCSK có sự khác biệt rất lớn giữa các khu vực có điều kiện 
kinh tế – xã hội – y tế khác nhau. 
Tử vong mẹ phần lớn xảy ra trong tuần đầu sau khi sinh (60%), đặc biệt 
là 24 giờ đầu sau khi sinh [11]. Có 2 nhóm nguyên nhân chính dẫn đến tử vong 
mẹ là nguyên nhân sản khoa trực tiếp và các nguyên nhân gián tiếp khác trong 
đó nhóm nguyên nhân sản khoa trực tiếp chiếm tới 80% số ca tử vong mẹ trên 
thế giới [25], [34]. 
Các nguyên nhân sản khoa trực tiếp gây tử vong mẹ là các BCSK (trong 
các giai đoạn mang thai, chuyển dạ đẻ và sau đẻ). Có năm nguyên nhân sản khoa 
hay gặp nhất gây tử vong mẹ là: băng huyết (thường trong giai đoạn sau đẻ), 
nhiễm khuẩn, sản giật, đẻ khó và tai biến do nạo phá thai [25], [29],[30], [34]. 
Các nguyên nhân gián tiếp gây tử vong mẹ thường liên quan đến tình 
trạng bệnh tật trước khi mang thai hoặc các bệnh tật trong khi quá trình thai 
nghén, thường gặp nhất là sốt rét, thiếu máu, HIV/AIDS (virus suy giảm 
miễn dịch ở người / hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải), bệnh tim 
mạch [30], [34]. 
Điều đáng quan tâm là hầu hết các trường hợp tử vong mẹ do các nguyên 
nhân sản khoa cũng như các nguyên nhân gián tiếp khác, đặc biệt là các BCSK 
đều có thể phòng tránh được nếu như có biện pháp xử trí kịp thời khi có dấu 
hiệu sớm cũng như có sự chăm sóc đối với người phụ nữ trong suốt quá trình 
mang thai, đẻ con và thời kì hậu sản. 
5 
BCSK vẫn luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu để 
giảm tỷ lệ tử vong mẹ. Theo tài liệu của WHO thì tỷ lệ BCSK có thể lên tới 
15%, đặc biệt là ở các nước đang phát triển [26]. Trong các BCSK thì chảy 
máu sau đẻ (băng huyết sau sinh) là hình thái BCSK thường gặp nhất. Tổ chức 
y tế thế giới ước tính hàng năm có khoảng 20 triệu trường hợp bệnh lý do băng 
huyết sau đẻ . Hội nghị sản phụ khoa quốc tế diễn ra ở Hà Nội tháng 5 năm 
2007 cho biết, băng huyết sau sinh chiếm khoảng hơn 10% trong đó 1% trường 
hợp nguy kịch, và 25% trường hợp tử vong do băng huyết nặng gây ra. Tiền 
sản giật/sản giật cũng là một hình thái BCSK ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức 
khỏe bà mẹ và trẻ. Tiền sản giật là bệnh nhiễm độc thai ghén thường gặp, 
chiếm tỷ lệ 6% - 8% số phụ nữ mang thai và 85% trường hợp xảy ra trong thời 
kì mang thai đầu tiên. Nhiễm khuẩn hậu sản cũng là một trong những hình thái 
BCSK thường gặp, nhiễm khuẩn hậu sản có thể chiếm 3-4% trong số những 
phụ nữ có thai và đẻ . BCSK do nạo phá thai không an toàn cũng là một trong 
những vấn đề hàng đầu trong chăm sóc sức khỏe sinh sản và là một trong 
những vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới. Theo tài liệu của WHO thì mỗi 
năm trên thế giới có khoảng 19 triệu ca phá thai không an toàn và có khoảng 
40% các ca nạo phá thai không an toàn trong lứa tuổi vị thành niên từ 15-24 
tuổi [35]. Mỗi năm có khoảng 68.000 phụ nữ tử vong do nạo phá thai không an 
toàn, chiếm khoảng 13% phụ nữ tử vong do các nguyên nhân [33], [35]. Theo 
thống kê năm 2004 của Hiệp hội Kế hoạch hóa gia đình khu vực Đông Á Châu 
Đại Dương cứ một phút trên thế giới có 10 phụ nữ tử vong do nạo phá thai 
không an toàn [7]. Hầu hết các trường hợp nạo phá thai không an toàn được 
thực hiện ở các nước đang phát triển, chiếm khoảng 95% tổng số trường hợp 
nạo phá thai không an toàn [33]. 
Tử vong mẹ liên quan đến thai nghén và sinh đẻ không chỉ là một vấn đề 
sức khỏe mà còn là một vấn đề mất công bằng xã hội và là một trong những chỉ 
6 
số để đánh giá sự phát triển của một quốc gia [30]. Thế giới đang nỗ lực để 
giảm tỷ lệ tử vong mẹ cũng như tỷ lệ mắc và tử vong do các nguyên nhân liên 
quan đến thai nghén và sinh đẻ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ chính là một trong 
những mục tiêu của thiên niên kỷ mà nhiều quốc gia trên thế giới đang phấn 
đấu đạt được. 
1.1.2. Tình hình tử vong mẹ và BCSK tại Việt Nam 
Việt Nam là một nước đang phát triển với đặc điểm dân số trong độ tuổi 
sinh đẻ cũng như tỷ lệ sinh còn cao, tuy có nhiều cố gắng nhưng tử vong mẹ và 
BCSK vẫn là một trong những vấn đề nổi cộm. 
Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế (1995), tỷ lệ tử vong mẹ ở Việt Nam là 
137/100.000 trẻ sinh ra sống [11]. Theo ước tính của quĩ nhi đồng liên hợp 
quốc năm 2000, tỷ lệ tử vong mẹ ở Việt Nam là 130/100.000 trẻ sinh ra sống 
[28]. Tuy nhiên tỷ lệ này có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng có đặc điểm 
kinh tế - xã hội khác nhau. Nguyên nhân chủ yếu gây tử vong mẹ ở Việt Nam 
cũng là do các nguyên nhân sản khoa trực tiếp. 
Năm BCSK mà chương trình Làm mẹ an toàn cũng như hoạt động chăm 
sóc sản khoa cho bà mẹ mà Việt Nam luôn quan tâm là: Chảy máu (đặc biệt là 
chảy máu sau đẻ - băng huyết), nhiễm khuẩn hậu sản, tiền sản giật/sản giật, vỡ 
tử cung và uốn ván rốn. Ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về tỷ lệ BCSK cũng 
như tỷ lệ các hình thái BCSK trên phạm vi rộng toàn quốc nhưng các số liệu 
báo cáo cũng như các nghiên cứu tại một số bệnh viện phần nào phản ánh được 
tình hình BCSK tại Việt Nam. Tại TPHCM và một số tỉnh lân cận như Bình 
Dương, Long Antrong năm 2006 có 110.207 bà mẹ sinh nở, trong đó BCSK 
chiếm 1.249 ca. Trong tổng số 1.249 ca bị BCSK trong năm 2006, có đến 
1.121 ca chảy máu sau đẻ [20]. Chảy máu sau đẻ (băng huyết sau sinh) là hình 
thái BCSK thường gặp nhất và cũng là nguyên nhân gây tử vong mẹ hàng đầu 
7 
Cùng với năm BCSK thường gặp, một trong những vấn đề hàng đầu được 
quan tâm trong các nội dung chăm sóc sức khỏe sinh sản ở Việt Nam là tai biến 
do nạo phá thai không an toàn. Ở Việt Nam, tỷ lệ phá thai được đánh giá là cao 
so với khu vực và thế giới. Tỷ lệ nạo phá thai là 83/1.000 phụ nữ trong tuổi 
sinh sản, và tỷ suất nạo phá thai là 2,5 lần trên mỗi phụ nữ. Hàng năm có 1/2 
đến 1/3 số ca thực hiện phá thai tại cơ sở y tế tư nhân mà cơ sở y tế công không 
kiểm soát được. Theo Hội Sản phụ khoa Việt Nam, cứ năm ngày lại có một 
phụ nữ chết do nạo hút thai không an toàn [14]. Một điều đang được báo động 
là tỷ lệ nạo phá thai ngày càng gia tăng ở lứa tuổi vị thành niên. Do vậy, quản 
lý và thực hiện nạo phá thai an toàn cũng là một trong những nội dung quan 
trọng trong công tác chăm sóc SKSS ở Việt Nam.
Theo Niên giám thống kê y tế các năm cho thấy tình hình mắc và tử vong 
do các BCSK ở nước ta những năm vừa qua có giảm nhưng chưa đáng kể. 
Theo số liệu báo cáo của Niên giám thống kê năm 2004, số lần khám thai bình 
quân của một phụ nữ đẻ là 2,7 lần, tỷ lệ người đẻ được cán bộ y tế chăm sóc là 
94,7 % [1]. 
8 
Tình hình mắc năm biến chứng sản khoa tại Việt Nam năm 2001 – 2005
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Loại tai 
biến n % n % n % n % n % 
Băng 
huyết 
4380 71,84 3315 71,57 3263 73,05 2133 71,19 2426 74,19 
Nhiễm 
khuẩn 
758 12,43 551 11,90 479 10,72 329 10,99 325 9,94 
Sản giật 747 12,25 630 13,60 558 12,49 438 14,62 450 13,76 
Vỡ tử 
cung 
150 2,46 94 2,03 134 3,00 78 2,60 52 1,59 
Uốn ván 62 1,02 42 0,90 33 0,74 18 0,60 17 0,52 
Tổng số 6097 100,00 4632 100,00 4467 100,00 2996 100,00 3270 100,00 
( Nguồn: Niên giám thống kê y tế năm 2005 [2] ) 
 Tử vong do năm tai biến sản khoa tại Việt Nam năm 2001 – 2005 
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Loại tai 
biến n n N % n % n % n % 
Băng huyết 75 53,57 70 60,7 69 57,50 80 76,92 69 74,20 
Nhiễm 
khuẩn 
9 6,43 4 3,48 6 5,00 5 4,81 6 6,45 
Sản giật 15 10,71 11 9,56 13 10,83 8 7,69 8 8,60 
Vỡ tử cung 11 7,86 9 7,83 12 10,00 5 4,81 4 4,30 
Uốn ván 30 21,43 21 18,26 20 16,67 6 5,77 6 6,45 
Tổng số 140 100,00 115 100,00 120 100,00 104 100,00 93 100,00
( Nguồn: Niên giám thống kê y tế năm 2005 [2] ) 
9 
Những số liệu về tử vong mẹ cũng như tình hình BCSK trong các báo cáo 
tuy phản ánh một phần tình hình BCSK nhưng chắc chắn thấp hơn rất nhiều so 
với thực tế. Điều đáng chú ý là phần lớn những tai biến gây tử vong mẹ liên 
quan đến thai sản đều có thể phòng tránh được nếu có sự chăm sóc cho thai 
phụ trong suốt quá trình mang thai, đẻ con và sau đẻ. Chính vì vậy giảm tỷ lệ 
BCSK cũng như tỷ lệ tử vong mẹ liên quan đến thai nghén và sinh đẻ vẫn luôn 
là một vấn đề thách thức mà Việt Nam luôn nỗ lực giải quyết để nâng cao sức 
khỏe phụ nữ. 
1.2. Biến chứng sản khoa và các hình thái biến chứng sản khoa thường gặp 
1.2.1. Biến chứng sản khoa 
 BCSK là những biến chứng gặp trong các giai đoạn khi mang thai, 
chuyển dạ và trong thời kì hậu sản. 
BCSK là nguyên nhân chính trực tiếp gây tử vong mẹ và hiện nay nguyên 
nhân này chiếm tới 80% số ca tử vong mẹ trên thế giới [25], [30]. 
Trước đây khi đánh giá tình hình BCSK, các nghiên cứu thường dựa vào 
số liệu báo cáo cũng như thông tin ở các phòng đẻ và của các cơ sở y tế chăm 
sóc thai sản. 
Trong nghiên cứu này, những phụ nữ trong và sau khi kết thúc thai nghén 
có một hoặc nhiều triệu chứng của BCSK có biểu hiện suy tạng sẽ được đưa 
vào nghiên cứu. 
* Các hình thái BCSK thường gặp và các yếu tố nguy cơ của BCSK 
Với khái niệm BCSK là những biến chứng người mẹ gặp phải khi mang 
thai, sinh đẻ và trong thời kì hậu sản, có rất nhiều hình thái và mức độ BCSK 
khác nhau. Theo Tổ chức y tế thế giới, trong các hình thái BCSK thì 5 BCSK 
hay gặp nhất là: chảy máu sau đẻ (băng huyết), nhiễm khuẩn hậu sản, nhiễm 
độc thai nghén - sản giật, vỡ tử cung và tai biến do nạo phá thai [25], [30]. Tuy 
nhiên ở mỗi vùng, mỗi quốc gia, vào mỗi thời kì khác nhau thì tỷ lệ các hình 
10 
thái BCSK cũng khác nhau và với mỗi loại hình thái BCSK thì lại có những 
yếu tố nguy cơ khác nhau. 
1.2.2. Chảy máu sau đẻ (băng huyết sau sinh) 
Chảy máu sau đẻ (CMSĐ) bao gồm tất cả các trường hợp chảy máu sau 
khi sổ thai mà lượng máu chảy ra quá mức bình thường hoặc ảnh hưởng xấu 
đến toàn trạng của sản phụ [9]. 
Chảy máu sau đẻ là biến chứng thường gặp, chẳng những trong các cuộc 
đẻ khó mà còn gặp ngay cả trong những cuộc đẻ thường [17]. Chảy máu sau đẻ 
có thể xảy ra sớm trong vòng 24 giờ sau sổ thai hoặc xảy ra muộn hơn 24 giờ 
sau đẻ đến 6 tuần đầu của thời kì hậu sản. 
Theo WHO khuyến cáo, chảy máu sau đẻ là hiện tượng chảy máu âm đạo 
sau khi sổ thai vượt quá 500ml. 
Theo Gable và cộng sự, chảy máu sau đẻ có thể được phân loại theo lượng 
máu mất như sau [27]: 
Độ Lượng máu mất (ml) 
Tỷ lệ máu mất so với 
khối lượng tuần hoàn 
(%) 
1 
2 
3 
4 
<900 
1200 – 1500 
1800 – 2100 
>2400 
15 
20 – 25 
30 – 35 
40 
Tuy nhiên việc đánh giá lượng máu mất sau đẻ được coi là bất thường 
khác nhau theo từng tác giả và tùy từng nơi nghiên cứu. Mức độ nguy hiểm của 
chảy máu sau đẻ không chỉ phụ thuộc vào lượng máu mất mà còn tùy thuộc 
vào thể trạng của bà mẹ. 
11 
Theo tác giả Lê Điềm, ở Việt Nam, sản phụ bị thiếu máu trong ba tháng 
cuối chiếm tỷ lệ khoảng 50 – 60% vì vậy có thể tạm thời quy định nếu lượng 
máu mất sau đẻ từ 300ml trở lên coi như chảy máu sau đẻ (băng huyết) [8]. 
Cũng theo tác giả này, bình thường lượng máu mất sau đẻ chiếm khoảng 
10% khối lượng máu của toàn cơ thể, theo một định nghĩa khác nếu lượng máu 
mất sau đẻ từ 1% trọng lượng cơ thể trở lên thì gọi là chảy máu sau đẻ (băng 
huyết sau sinh) [8]. 
* Nguyên nhân chảy máu sau đẻ: thường gặp là đờ tử cung, chấn thương 
đường sinh dục (đặc biệt là vỡ tử cung), bất thường về bong, sổ rau, lộn tử 
cung, các bệnh về máu 
* Một số yếu tố nguy cơ gây chảy máu sau đẻ: chảy máu sau đẻ thường 
xảy ra trên những sản phụ sinh con thứ 3 trở lên hoặc sản phụ có bệnh lý tiền 
sản giật (bị phù nề). Quá trình chuyển dạ quá dài, trẻ sơ sinh nặng cân (từ 4-
5kg), nạo phá thai nhiều lần, sản phụ bị thiếu máu hay các bệnh lý nội khoa 
như tiểu cầu thấp, rối loạn đông máu cũng là những yếu tố nguy cơ gây chảy 
máu sau đẻ. 
Chảy máu sau đẻ là một biến chứng cấp tính hay gặp trong sản khoa và rất 
nguy hiểm nếu không được xử trí kịp thời. Chảy máu sau đẻ là nguyên nhân 
chính gây tử vong ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vì vậy 
cần phải phòng chảy máu sau đẻ, đặc biệt đối với các đối tượng có nguy cơ cao 
và cần có những biện pháp xử trí đúng đắn và kịp thời với các trường hợp chảy 
máu sau đẻ để giảm tỷ lệ tử vong do chảy máu sau đẻ. 
* Các phương pháp xử trí chảy máu sau đẻ 
- Hồi sức nội khoa: 
Phải tiến hành song song giữa xử trí nguyên nhân và hồi sức cho sản phụ 
như cho nằm đầu thấp, thở Oxy, sưởi ấm, bù lại thể tích máu đã mất, bù khối 
12 
lượng tuần hoàn bằng dịch truyền Natriclorua 0,9%, Heasteril, truyền máu.Với 
những trường hợp tiền sản giật nặng, rau bong non hay chảy máu với số lượng 
nhiều phải nghĩ đến nguyên nhân do rối loạn đông mau sau khi đã loại trừ các 
nguyên nhân khác. 
- Xử trí CMSĐ bằng các thủ thuật sản khoa: 
+ Khi rau chưa bong: thực hiện theo khuyến cáo của WHO tháng 
10/2006 về xử trí tích cực giai đoạn 3 chuyển dạ [14], [16]. Tiến hành bóc rau 
nhân tạo và kiểm soát tử cung sau khi đã hồi sức, giảm đau cho sản phụ, nếu 
rau cài răng lược hoàn toàn, tiến hành mổ cắt tử cung ngay. 
+ Khi rau đã bong: Kiểm soát tử cung (lấy hết máu cục, màng rau và rau 
sót cũng là để kiểm tra sự toàn vẹn của tử cung, đồng thời phối hợp với các 
thuốc co bóp tử cung. Khâu cầm máu vết rách sinh dục (rách hoặc có khối máu 
tụ đường sinh dục phái lấy máu tụ, khâu cầm máu vết rách cổ tử cung, thành 
âm đạo, cùng đồ, tầng sinh môn) 
- Các phẫu thuật xử trí CMSĐ: 
+ Thắt động mạch tử cung: thắt nhánh lên của động mạch tử cung hai 
bên có kết quả tốt [18] [156] [57]. Theo Lê Công Tước [18] thắt động mạch 
chiếm 74% các trường hợp CMSĐ phải can thiệp phẫu thuật, tỷ lệ thành công 
83,5%. 
+ Thắt động mạch hạ vị: để bảo tồn tử cung cho sản phụ đẻ lần đầu 
+ Kỹ thuật gây tắc mạch tử cung 
+ Cắt tử cung cầm máu: là phương pháp xử trí triệt để CMSĐ, là biện 
pháp cuối cùng nhằm cứu sống sản phụ. Clark SL [34] cho rằng tỉ lệ cắt tử 
cung cho CMSĐ là 14% đối với đẻ đường dưới và 86% đối với mổ lấy thai. 
Các chỉ định hay gặp là: đờ tử cung, rau cài răng lược, vỡ tử cung, rách đoạn 
dưới tử cung trong mổ đẻ, u xơ tử cung. 
13 
1.2.3. Rối loạn đông máu trong sản khoa 
Rối loạn đông máu đặc biệt là đông máu rải rác nội mạch (Disseminated 
Intravascular Coagualation – DIC) là biến chứng nặng, thường gặp trong sản 
khoa 
Theo một số nghiên cứu thì trong số các nguyên nhân gây DIC thì sản 
khoa đứng hàng thứ 4 (sau nhiễm trùng, ung thư). DIC để lại nhiều hậu quả 
nặng nề cho các sản phụ và góp phần làm tăng tỉ lệ tử vong của mẹ trong sản 
khoa 
1.2.3.1. Các thay đổi về hệ thống đông máu ở người có thai và sau đẻ 
 * Ở người có thai, hệ thống đông máu có những biến đổi khác với người 
bình thường nhứ: 
- Thay đổi nồng độ các yếu tố đông máu: 
+ Giảm tiểu cầu do máu bị pha loãng (do tăng thể tích huyết tương) 
+ Yếu tố VII, IX đều tăng. Chỉ có yếu tố V, II không thay đổi 
+ Các yếu tố ức chế đông máu: kháng yếu tố III giảm nhẹ, protein C tăng 
nhẹ. Còn protein S giảm nhiều bắt đầu từ quí 2, toàn bộ giảm đến 50 – 60%. 
- Luôn có mặt quá trình tạo thrombin với một nồng độ thấp và kéo dài. 
- Giảm hoạt tính tiêu fibrin do tăng nồng độ các chất ức chế yếu tố hoạt 
hóa plasminogen và giảm nồng độ chất hoạt hóa plasminogen tổ chức. Do đó ở 
phụ nữ có thai, nguy cơ RLĐM cao hơn ở phụ nữ không có thai 
* Trong quá trình chuyển dạ xuất hiện một số yếu tố làm tăng nguy cơ 
xuất hiện RLĐM sau đẻ: 
- Do sự phóng thích các yếu tố tổ chức (có rất nhiều trong rau thai, tử 
cung) hoặc yếu tố X (có niều trong dịch ối) hoạt hóa đông máu theo con đường 
ngoại sinh. 
14 
- Do sốc, nhiễm trùng hoạt hóa đông