Theo Khromov (1957) [5]: ITCZ là dải thời tiết xấu, hình thành bởi sự hội tụ của tín phong 2 bán cầu, của tín phong 1 bán cầu với tín phong bán cầu kia vượt xích đạo và chuyển hướng và tín phong mỗi bán cầu với đới tín phong gió tây xích đạo mở rộng. Có 3 mô hình của dải hội tụ nhiệt đới:
• Loại 1: Gần sát xích đạo. Xảy ra ở Đại Tây Dương khi tín phong 2 bán cầu gặp nhau ở gần xích đạo. Loại dải hội tụ gió này có tần suất cao, tồn tại ngay trên bản đồ gió trung bình toàn cầu ở miền xích đạo ĐTD. Trong dải hội tụ nhiệt đới này, dải mây tích và mây vũ tích tạo thành dải có mật độ không đều. Chiều rộng của dải mây chừng 200- 300m, chiều dài rất lớn, có trường hợp gần như bao quanh Trái Đất.
59 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2894 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu sự ảnh hưởng của dải hội tụ nhiệt đới và rãnh gió mùa tới chế độ mưa trên khu vực đồng bằng bắc bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN
ĐỖ HƯƠNG LINH
NGHIÊN CỨU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA DẢI HỘI TỤ NHIỆT ĐỚI
VÀ RÃNH GIÓ MÙA TỚI CHẾ ĐỘ MƯA TRÊN
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
Hà Nội, Năm 2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN
ĐỖ HƯƠNG LINH
NGHIÊN CỨU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA DẢI HỘI TỤ NHIỆT ĐỚI
VÀ RÃNH GIÓ MÙA ĐẾN CHẾ ĐỘ MƯA TRÊN
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
Chuyên ngành: Khí tượng học
Mã ngành: D440221
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Phạm Minh Tiến
Hà Nội, Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là bài nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của ThS. Phạm Minh Tiến. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài là trung thực và chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn số liệu khác nhau. Ngoài ra đồ án còn sử dụng một số nhận xét đánh giá của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung đồ án tốt nghiệp của mình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2016
Sinh viên
Đỗ Hương Linh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện tốt bài niên luận này, với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy cô giáo trong khoa Khí tượng Thủy văn đã dạy dỗ, tận tình chỉ bảo em trong suốt những năm tháng học tập tại trường.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Thầy giáo Phạm Minh Tiến, người đã trực tiếp định hướng và hướng dẫn em trong suốt thời gian làm khóa luận.
Bên cạnh đó em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành những lời nhận xét, góp ý từ Thầy cô và bạn bè giúp em hoàn thành bài khóa luận này tốt hơn.
Cũng nhân đây em muốn gửi lời cảm ơn tới Gia đình, người thân và bạn bè đã luôn bên cạnh ủng hộ, động viên và giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập cũng như làm khóa luận.
Bài khóa luận mặc dù em đã rất cố gắng để hoàn thiện nhưng cũng không thể tránh khỏi được sai sót,rất mong nhận được những góp ý quý báu của các thầy cô để em có thể rút kinh nghiệm, sửa chữa bổ sung cũng như để hoàn thành được bài tốt hơn nữa .
Cuối cùng em xin chúc Quý Thầy cô, Gia đình, bạn bè lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và công tác tốt.
Em xin chân trọng cảm ơn !
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNĐ: Cận nhiệt đới.
ĐTD: Đại Tây Dương.
ITCZ: Dải hội tụ nhiệt đới.
KKL: Không khí lạnh.
KTTV: Khí tượng Thủy văn.
MST: Rãnh gió mùa.
TBD: Thái Bình Dương.
TBNN: Trung bình nhiều năm
.
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Tổng lượng mưa tháng từ 1985-2004. 28
Bảng 3.2. Số đợt mưa lớn hơn 50mm từ năm 1985-2004. 31
Bảng 3.3. Các đợt mưa lớn và nguyên nhân gây mưa lớn của các đợt. 31
Bảng 3.4. Lượng mưa đo được tại các trạm ngày 21- 23/07/2004. 47
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1a. Mô hình ITCZ loại I 3
Hình 1.1b. Mô hình ITCZ loại II 4
Hình 1.1c. Mô hình ITCZ loại III. 4
Hình 1.1d. Hoạt động của ITCZ theo mùa. 5
Hình 1.1e. Sự phân bố khí áp bề mặt mmmmặtmặt 8
Hình 1.1f. Mặt cắt thẳng đứng kinh hướng của gió vĩ hướng. 8
Hình 1.1i. Mặt cắt thẳng đứng kinh hướng của độ phân kì vận tốc ngang (x10-6/s) 9
Hình 1.1h. Mặt cắt thẳng đứng theo hướng bắc- nam của gió kinh hướng 9
Hình 1.1k. Phân bố mưa theo hướng bắc- nam. 9
Hình 1.1j. Mặt cắt thẳng đứng theo hướng bắc- nam của độ ẩm tương đối. 9
Hình 1.1m. Mô hình lý tưởng của ITCZ. 10
Hình 1.1l. Mặt cắt thẳng đứng theo hướng bắc- nam của gió trên vùng biển Ả rập tại kinh tuyến 550E và 650E. 10
Hình 1.1m. Rãnh gió mùa nối vào ITCZ 12
Hình 1.4: Bản đồ khu vực Đồng Bằng Bắc Bộ. 16
Hình 3.1a. Diễn biến lượng mưa trung bình tháng của các trạm. 29
Hình 3.1b. Diễn biến lượng mưa trung bình tháng của các trạm. 30
Hình 3.1c. Diễn biến lượng mưa trung bình tháng của các trạm. 30
Hình 3.3. Bản đồ synop các mực đẳng áp chuẩn ngày 15 tháng 10 năm 2000. 34
Hình 3.4a: Bản đồ synop các mực đẳng áp chuẩn ngày 21 tháng 7 năm 2001 37
Hình 3.4b: Bản đồ synop các mực đẳng áp chuẩn ngày 22 tháng 7 năm 2001. 38
Hình 3.5. Bản đồ synop các mực đẳng áp chuẩn ngày 09 tháng 09 năm 2003. 41
Hình 3.6a. Bản đồ synop các mực đẳng áp chuẩn ngày 21 tháng 7 năm 2004 43
Hình 3.6b. Bản đồ synop các mực đẳng áp chuẩn ngày 22 tháng 7 năm 2004. 45
Hình 3.6c. Bản đồ synop các mực đẳng áp chuẩn ngày 23 tháng 7 năm 2004. 46
MỞ ĐẦU
Trong khí quyển ngoài sự chuyển động theo chiều ngang, không khí còn chuyển động theo chiều thẳng đứng. Tốc độ thẳng đứng so với tốc độ di chuyển của không khí theo chiều nằm ngang thì rất nhỏ nhưng nó lại giữ một vai trò chủ yếu trong những nguyên nhân gây ra các hiện tượng thời tiết như mây, mưa, dông....
Trong thực tế, không khí xáo trộn và được đưa lên cao, dọc theo một đường, đường đó gọi là Dải hội tụ nhiệt đới. Nói khác đi, dải hội tụ là nơi có dòng thăng rõ rệt. Dọc theo dải hội tụ, ảnh hưởng của tốc độ gió và hướng gió khác nên không khí bị dồn nén lại và thăng lên cao. Dải hội tụ có thể kéo dài từ 500-600 đến hàng nghìn kilomets.
Dải hội tụ nhiệt đới là một trong các hệ thống thời tiết có thể cho lượng mưa rất lớn đến mức kỷ lục trên diện rộng ở miền nhiệt đới, đặc biệt là khi hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới lại kết hợp với các hình thế thời tiết khác như front lạnh, bão có thể hình thành trên dải hội tụ nhiệt đới.
Bên cạnh đó, rãnh gió mùa cũng là một hình thế gây mưa lớn. Rãnh gió mùa- MST là một dải tương đối hẹp, được đặc trưng bởi sự chuyển hướng gió theo chiều xoáy thuận trong vùng gió mùa. Trên khu vực Nam Á và Đông Nam Á, MST là một hệ thống hình thành từ một dải thấp nóng bề mặt mạnh và phát triển đến tầng đối lưu giữa nhờ có sự hội tụ vào rãnh của gió mùa tây nam giàu hơi nước ở phía nam với gió đông có nguồn gốc lục địa ở phía bắc.
Ở khu vực Đồng Bằng Bắc Bộ, vào mùa mưa, có nhiều hình thế thời tiết gây mưa trên khu vực: bão, áp thấp nhiệt đới, dải hội tụ nhiệt đới, rãnh gió mùa... lượng mưa trong mùa mưa chiếm tới 80- 85% lượng mưa cả năm. Vì vậy, việc nắm rõ quy luật, thời gian hoạt động, đặc điểm cơ bản của những hình thế gây mưa lớn và sự kết hợp giữa các hình thế với nhau đóng vai trò quan trọng đối với công tác dự báo của các dự báo viên.
Do đó, em đã chọn đề tài “Nghiên cứu sự ảnh hưởng của ITCZ, MST tới chế độ mưa ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ” với những nội dung sau:
Chương 1: Tổng quan về ITCZ, MST
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu.
Do quá trình nghiên cứu và việc tìm tài liệu, kiến thức cũng như kinh nghiệm của bản thân còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong Thầy, Cô cho em những nhận xét, ý kiến để em có thể tiếp thu. Đó sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang giúp em trong công việc sau này.
CHƯƠNG I - TỔNG QUAN
1.1 Dải hội tụ nhiệt đới
1.1.1 Khái niệm
Theo Khromov (1957) [5]: ITCZ là dải thời tiết xấu, hình thành bởi sự hội tụ của tín phong 2 bán cầu, của tín phong 1 bán cầu với tín phong bán cầu kia vượt xích đạo và chuyển hướng và tín phong mỗi bán cầu với đới tín phong gió tây xích đạo mở rộng. Có 3 mô hình của dải hội tụ nhiệt đới:
Loại 1: Gần sát xích đạo. Xảy ra ở Đại Tây Dương khi tín phong 2 bán cầu gặp nhau ở gần xích đạo. Loại dải hội tụ gió này có tần suất cao, tồn tại ngay trên bản đồ gió trung bình toàn cầu ở miền xích đạo ĐTD. Trong dải hội tụ nhiệt đới này, dải mây tích và mây vũ tích tạo thành dải có mật độ không đều. Chiều rộng của dải mây chừng 200- 300m, chiều dài rất lớn, có trường hợp gần như bao quanh Trái Đất.
Hình 1.1a. Mô hình ITCZ loại I
Loại 2: Dải hội tụ nhiệt đới loại 2 là kết quả của sự hội tụ giữa tín phong Nam Bán Cầu vượt xích đạo chuyển hướng thành gió mùa tây nam với tín phong đông bắc Bắc Bán Cầu. Đặc điểm của loại dải hội tụ nhiệt đới này là nằm cách xa xích đạo, với khoảng cách này lực Coriolis đủ lớn để tạo các xoáy xoáy thuận thể hiện qua các xoáy mây trên ảnh mây vệ tinh. Dải hội tụ nhiệt đới loại 2 đặc trưng cho dải hội tụ nhiệt đới ở Đông Nam Á và Biển Đông. Những xoáy thuận trên dải hội tụ nhiệt đới là nhiễu động ban đầu cho sự hình thành của bão ở Biển Đông.
Hình 1.1b. Mô hình ITCZ loại II
Loại 3: Tín phong hai bán cầu hội tụ với đới gió tây xích đạo mở rộng. Dải hội tụ nhiệt đới thứ ba là dải hội tụ kép với dải hội tụ chính ở Bắc Bán Cầu và dải hội tụ phụ ở Nam Bán Cầu với cường độ phát triển không lớn bằng dải hội tụ ở phía bắc. Loại dải hội tụ nhiệt đới này ít thấy hơn so với hai loại trên và chỉ xảy ra ở nơi đới gió tây xích đạo biểu hiện rõ.
Hình 1.1c. Mô hình ITCZ loại III.
Quy luật hoạt động:
Theo những thời hạn ngắn, ITCZ cũng có những quy luật hoạt động nhất định. Theo kết quả nghiên cứu về thời gian kéo dài của một đợt ITCZ hoạt động (từ khi hình thành cho đến khi tan rã) cho thấy, thời gian này rất không đồng nhất, có những đợt ITCZ tồn tại rất ngắn, chỉ trong một ngày, thậm chí là trong vài kì quan trắc; ngược lại, có những đợt ITCZ tồn tại trong thời gian khá dài, đợt kéo dài điển hình nhất đợt từ ngày 12-30/11/86 (19 ngày) [1].
Theo quy luật hoạt động mùa: trong tháng 4 và tháng 11, ITCZ hoạt động ở vĩ độ thấp nhất. Thực tế nghiên cứu từng ngày cũng cho thấy, trong tháng 11, có những đợt ITCZ hoạt động ở vĩ độ rất thấp, xấp xỉ 30N. Khi ITCZ hoạt động lên vị trí cao nhất (trong tháng 7 và 8) thường là những ngày có bão hoạt động trong ITCZ và bão đi lên vùng vĩ độ cao; khi bão đổ bộ rồi tan đi thì ITCZ cũng tan theo nên nó không kéo dài mấy ngày như khi ở vĩ độ thấp nhất. Ví dụ, đợt ngày 15/7/1987, ITCZ hoạt động ở vĩ độ khá cao, cao trên 360N và đến ngày sau đó bão đổ bộ vào Trung Quốc thì ITCZ cũng tan theo.
Hình 1.1d. Hoạt động của ITCZ theo mùa.
1.1.2 Đặc trưng
ITCZ có những đặc trưng sau:
1) ITCZ là giới hạn phía xích đạo của vòng hoàn lưu Hadley và cũng là nơi hình thành nhánh đi lên vòng hoàn lưu này.
2) ITCZ là một đới hẹp bao quanh Trái đất, về cơ bản, nó nằm trong bán cầu mùa hè. Tuy nhiên, vị trí của ITCZ có sự biến động rất lớn tuỳ theo từng khu vực. Trên bề mặt, vị trí cực bắc của nó trong tháng 7 và vị trị cực nam của nó trong tháng 1. Trong tháng 7, vị trí của ITCZ dịch chuyển lên phía bắc nhất (tới 280N) trên lục địa châu Á, còn trong tháng 1 vị trí của nó dịch chuyển xuống phía nam thấp nhất trên lục địa Australia và Đông Phi. Như vậy, tại bề mặt, vị trí của ITCZ thường trùng với vùng có nhiệt độ cao nhất, thậm chí ngay cả trên các vùng đại dương. Vì vậy, ITCZ thường được gọi là xích đạo nhiệt của Trái đất.
3) Khi ITCZ nằm ở vị trí cao nhất lên phía bắc hay thấp nhất xuống phía nam thì khối không khí phía xích đạo của ITCZ không phải bao giờ cũng là khối không khí từ bán cầu mùa đông thổi sang.
4) ITCZ không nằm ngay trên xích đạo mà thường là ở phía bắc hoặc phía nam. Nguyên nhân của hiện tượng này vẫn chưa được giải thích một cách rõ ràng. Khi tín phong của một trong hai bán cầu vượt qua xích đạo rồi đổi hướng thành gió có thành phần tây trước khi hội tụ vào ITCZ (không hẳn chỉ do tác động của lực Coriolis). Như vậy luôn có một độ đứt gió xoáy thuận qua ITCZ với gió có thành phần hướng tây phía xích đạo và thành phần hướng đông phía cực của ITCZ.
5) Trên quy mô hành tinh, ta có thể xem ITCZ là một đới có khí áp thấp nhất và có sự hội tụ khối lượng theo phương nằm ngang trong tầng thấp, do vậy nó cũng là đới có dòng thăng mạnh.
6) Thông thường khối không khí phía cực của ITCZ là không khí trong nhánh đi xuống của vòng hoàn lưu Hadley nên nó là dòng giáng đoạn nhiệt, vì vậy nó khá nóng, khô và ổn định. Trong khi đó khối không khí phía xích đạo của ITCZ là khối không khí biển nhiệt đới, khá mát hơn khối không khí phía cực nên ITCZ thường nghiêng về phía xích đạo. Độ nghiêng của ITCZ có tính biến động rất lớn theo không gian cũng như thời gian. Độ nghiêng này phụ thuộc vào sự khác nhau của nhiệt độ và tốc độ gió giữa hai bên ITCZ. Tuy nhiên sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai bên ITCZ thường không đáng kể nên độ nghiêng của ITCZ cũng không lớn. Do đó trên bản đồ synop, ITCZ thường được xem là một đới bất liên tục về hướng gió và một rãnh khí áp thấp nhất chứ không phải là một đới bất liên tục của nhiệt độ.
7) Nếu căn cứ vào sự bất liên tục của hướng gió thì trên vùng Ấn Độ, vào tháng 7, ITCZ phát tiển lên đến độ cao lớn nhất, tới mực 400mb. Trong khi đó ở những vùng khác, ITCZ thường chỉ phát triển lên đến mực 700mb. Phía trên mực đó là dòng gió đông khá khô thuộc hoàn lưu của áp cao cận nhiệt đới. Mây được hình thành trong lớp không khí ẩm phía xích đạo của ITCZ. Trong nhiều trường hợp, khi độ dày của lớp ẩm lên tới trên 3km thì những đám mây Cu và Cb lớn được hình thành. Trên những vùng khác, ta có thể nhận thấy những đám mây tích phát triển theo chiều cao không lớn hoặc những đám mây tầng tích. Lượng mây cực đại thường quan trắc được ở về phía xích đạo của ITCZ với kích thước khoảng từ 200 đến 500km tính từ vị trí ITCZ bề mặt. Trên cơ sở đó, việc xác định vị trí của ITCZ trên những vùng không có số liệu quan trắc gió và áp được thực hiện bằng ảnh mây vệ tinh cho kết quả rất tốt. Như vậy, ITCZ không những là một đới bất liên tục về hướng gió, một đới có khí áp nhỏ nhất mà còn là một đới mây cực đại trên ảnh mây vệ tinh.
Những hệ thống thời tiết quy mô synop và quy mô vừa cũng tác động nhất định đối với thời tiết gần vùng ITCZ. Trong ITCZ, mây biến đổi mạnh do có sự dao động về vị trí và cường độ của chuyển động thăng trong vùng lân cận. Vị trí và cường độ của áp cao cận nhiệt đới trong cả hai bán cầu đều ảnh hưởng tới vị trí và cường độ của ITCZ.
8) ITCZ có vai trò vận chuyển nhiệt: Như đã biết, cán cân bức xạ của hệ thống mặt đất-khí quyển vùng nhiệt đới luôn luôn dương, còn ở vùng vĩ độ cao luôn luôn âm. Trong đó, các đại dương nhiệt đới chiếm phần lớn năng lượng này. Khoảng 1/3 năng lượng mà các đại dương nhận được được vận chuyển lên vùng vĩ độ cao nhờ các dòng hải lưu, còn 2/3 năng lượng còn lại được vận chuyển từ các đại dương vào khí quyển do bốc hơi. Khi trong ITCZ chưa có đối lưu phát triển mạnh thì hơi nước được vận chuyển tới những vùng cận nhiệt đới trong tầng đối lưu dưới. Nhưng khi trong ITCZ có đối lưu phát triển mạnh thì tiềm nhiệt ngưng kết được giải phóng ra, trở thành hiển nhiệt trong các lớp khí quyển của tầng đối lưu trên rồi được vận chuyển lên các vĩ độ cận nhiệt đới.
1.1.3 Cấu trúc
Đôi khi, ITCZ thể hiện rõ một cấu trúc với hội tụ ở mực thấp và phân kỳ ở mực cao với dòng thăng rất mạnh và có tốc độ cực đại ở phần giữa tầng đối lưu. Hội tụ ở mực thấp chủ yếu là do sự hội tụ của thành phần kinh hướng của gió mỗi bán cầu và xoáy là do độ đứt trong dòng khí giữa các nhánh hội tụ của tín phong mỗi bán cầu hay là hội tụ giữa tín phong một bán cầu với đới gió tây xích đạo vốn là tín phong của bán cầu kia khi vượt xích đạo chuyển hướng.
Theo nghiên cứu của GATE [2] (Global Atmospheric Tropical Experiment) trên khu vực Đại Tây Dương đã chỉ ra những dặc điểm cơ bản của ITCZ trong phạm vi 15 vĩ độ. Về cơ bản, cấu trúc của ITCZ trên phạm vi toàn cầu đưuọc mô tả như trên, nhưng đối với từng khu vực cụ thể thì nó lại mang những nét đặc trưng riêng. Ngay cả khi đã xét cho tưng khu vực cụ thể, vị trí và cấu trúc của ITCZ cũng có những biến động hàng ngày và nhiều ngày khá phức tạp. Theo các công trình nghiên cứu thì sự biến động của ITCZ theo thời gian là do:
Sự dịch chuyển theo hướng bắc- nam quy mô toàn cầu.
Sự dịch chuyển của sóng đông.
Biến thiên nhiệt độ ngày đêm.
1) Cấu trúc của trường áp
Hình 1.1e cho thấy, ở trung tâm rãnh, khí áp cực tiểu với giá trị 1011,9-1012,0mb kéo dài trên phạm vi khoảng 6 độ vĩ, từ dải thứ 5 đến dải thứ 11. Phần phía bắc của rãnh, gradient khí áp là 0,15mb/độ vĩ, còn phần phía nam là 0,3mb/ độ vĩ.
2) Cấu trúc trường gió vĩ hướng
Hình 1.1e. Sự phân bố khí áp bề mặt
Hình 1.1f. Mặt cắt thẳng đứng kinh hướng của gió vĩ hướng.
Hình 1.1f đã chỉ ra rằng, ở bề mặt gió tây tồn tại trong tất cả các vĩ tuyến và đạt cực đại tại điểm thứ 8, nơi có đối lưu cực đại. Dòng gió đông tầng giữa có tốc độ cực đại lớn hơn 10m/s với trung tâm nằm phía bắc vùng có dòng thăng cực đại. Dòng gió đông nhiệt đới trên mực 200mb có một một cực tiểu rõ ràng trên vùng có dòng thăng cực đại.
3) Cấu trúc trường gió kinh hướng
Hình 1.1g: mô tả gió kinh hướng trung bình trong vùng ITCZ.
Từ hình vẽ ta thấy, hầu hết các dòng kinh hướng tầng thấp hội tụ vào ITCZ đều đến từ phía nam của ITCZ, dòng hội tụ từ phía bắc ITCZ đến yếu nhưng tồn tại tới độ cao lớn. Đới hội tụ giữa gió nam và gió bắc tại bề mặt nằm cách vùng đối lưu cực đại khoảng 200km về phía bắc (điểm 6). Vùng phân kì mạnh nhất xuất hiện trong tầng đối lưu trên với trục gần trùng với đới hội tụ tầng thấp.
4) Sự phân kì vận tốc nằm ngang và chuyển động thẳng đứng
Hình 1.1h chỉ ra rằng, xung quanh đới đối lưu cực đại có một vùng hội tụ tầng thấp và phân kì tầng cao. Phía nam điểm 12, đặc trưng này không thể hiện rõ rệt.
Hình 1.1i. Mặt cắt thẳng đứng kinh hướng của độ phân kì vận tốc ngang (x10-6/s)
Hình 1.1h. Mặt cắt thẳng đứng theo hướng bắc- nam của gió kinh hướng
5) Độ ẩm tương đối
Hình 1.1i chỉ ra rằng, xung quanh dải có đối lưu cực đại, từ thấp lên cao, độ ẩm ntương đối lớn hơn vùng khác từ 10 đến 15%.
6) Giáng thuỷ
Từ hình 1.1j ta thấy, điểm số 8 là nơi có giáng thuỷ cực đại với giá trị 3cm/ngày. Đây cũng là điểm chuyển động thăng có giá trị cực đại. Trong vùng từ điểm 4 đến điểm 11, lượng mưa trung bình khoảng 2cm/ngày.
Hình 1.1k. Phân bố mưa theo hướng bắc- nam.
Hình 1.1j. Mặt cắt thẳng đứng theo hướng bắc- nam của độ ẩm tương đối.
Mô hình lí tưởng của ITCZ được dẫn ra trong hình 1.1k. Bằng việc sử dụng số liệu thám sát tàu biển từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1973 trên vùng biển Ả Rập, Godbole và Ghosh đã xây dựng được mặt cắt thẳng đứng của ITCZ trên vùng từ 550E và 650E như được dẫn ra trong hình 1.1l.
Hình 1.1m. Mô hình lý tưởng của ITCZ.
Hình 1.1l. Mặt cắt thẳng đứng theo hướng bắc- nam của gió trên vùng biển Ả rập tại kinh tuyến 550E và 650E.
1.1.4 Hệ quả thời tiết
Dải hội tụ nhiệt đới có ảnh hưởng lớn thới thời tiết khu vực Nam Á. Hằng năm, Dải hội tụ nhiệt đới (ITCZ) bắt đầu từ tháng 6, tới tháng 7, 8, thậm chí là tháng 9, nó thường hoạt động mạnh ở biển Đông. Áp thấp ở Biển Đông và Bão thường phát triển trên Dải hội tụ nhiệt đới [4].
Căn cứ vào quy luật hoạt động của ITCZ (đã được nói đến ở Chương I) và số liệu TBNN cho thấy, vị trí cao nhất trung bình tháng của ITCZ vào tháng 8, khoảng 210N đi qua khu vực ĐBBB, tương ứng với vị trí trục Áp cao Tây TBD cao nhất vè phía bắc TBNN vào tháng 8: khoảng 30,50N (theo tập số liệu TBNN vè trục Áp cao tây TBD của Phòng Dự báo hạn ngắn- Trung tâm Quốc gia Dự báo KTTV).
Đối với khu vực Bắc bộ, ITCZ thưởng hoạt động trong tháng 7, tháng 8 dưới hai dạng sau cần lưu ý :
ITCZ hoạt động đơn thuần
ITCZ đi qua ĐBBB mỗi khi lưỡi áp cao tây TBD mạnh lên và lấn về phía tây, đới gió đông- đông nam ở phía bắc ITCZ mạnh lên. Trên bản đồ mặt đất khí áp tăng (rp 24: dương), các bản đồ trên cao, độ cao địa thế vị (rH24: dương) đều tăng; biểu hiện quá trình áp cao tây TBD mạnh, cường độ hội tụ phần phía bắc ITCZ mạnh lên, gây quá trình mưa rào và dông diện rộng, có nơi mưa vừa, mưa to, chủ yếu xảy ra ở phần phía bắc đường hội tụ.
Kinh nghiệm cho thấy, trên bản đồ mực 500mb (đường 588 dam, địa thế vị) lấn về phía tây với kinh tuyến 1070- 1080E, quá trình mưa bắt đầu từ vùng ven biển rồi lan dần về phía tây. Ở đồng bằng trung du Bắc bộ thời gian mưa chủ yếu xảy ra vào đêm và sáng với lượng mưa ngày trung bình 20-30mm, có nơi từ 50-70mm, quá trình mưa kéo dài 2-3 ngày. Khi lưỡi áp cao tây TBD suy yếu và lùi dần ra phía đông, tốc độ gió đông- đông nam yếu dần, khí áp ở mặt đất và độ cao địa thế vị ở các tầng trên cao chuyển sang biến áp và biến cao âm, quá trình mưa giảm dần và đi đến kết thúc, chỉ còn mưa rào nhẹ và có tính chất cục bộ ở ven biển đồng bằng.
ITCZ hoạt động, đồng thời xuất hiện các nhiễu động xoáy thuận ở vịnh Bắc bộ hoặc phía đông đảo Hải Nam.
Khi lưỡi áp cao tây TBD mạnh lên và lấn về phía tây, nhiễu động xoáy thuận- vùng áp thấp (ở mặt đất thường là 1- 2 đường đẳng áp đóng kín, chưa đạt cấp ATNĐ) theo dòng gió đông dày và mạnh ở các tầng trên cao, di chuyển về phía tây vào đất