Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái đặc biệt mà Việt Nam là một trong những quốc gia được thiên nhiên ban tặng. Rừng ngập mặn chỉ có ở các nước nhiệt đới, á nhiệt đới và có vai trò bảo vệ môi trường và con người.
Ở nước ta với bờ biển dài 3620km đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế biển và cho sự phát triển của rừng ngập mặn, với việc hình thành nhiều bãi bồi đã làm cho diện tích rừng ngập mặn tăng lên một cách đáng kể tạo nên sự phong phú hơn về số lượng loài và thành phần cây ngập mặn. Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sống cho các loài động thực vật và cung cấp nguồn thức ăn cho con người, bên cạnh đó rừng ngập mặn có vai trò chắn sóng, chống cát bay và điều hòa không khí và cũng là nhân tố chống lại biến đổi khí hậu.
Hiện nay, trong quá trình phát triển kinh tế với tốc độ đô thị hóa diễn ra ngày càng mạnh, cùng với tốc độ gia tăng dân số nên con người đã khai thác và sử dụng rừng ngập mặn vào nhiều mục đích khác nhau làm cho diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp và thành phần các loài cây ngập mặn bị suy giảm. Gần đây vấn đề nuôi tôm của người dân đang gặp rất nhiều khó khăn do tình trạng ô nhiễm môi trường quanh các hồ nuôi tôm và tình trạng dịch bệnh của tôm, nguyên nhân là do rừng ngập mặn đã bị khai thác nên không còn có chức năng bảo vệ môi trường sống, hơn nữa giữa các cộng đồng nuôi tôm đang có sự mâu thuẫn rất lớn nên vấn đề nuôi tôm chưa đạt hiệu quả.
Xã tam Hải là một trong những xã có diện tích rừng ngập mặn lớn của huyện Núi Thành. Do đó vai trò của rừng ngập mặn đối với môi trường và con người là rất lớn. Tuy nhiên thời gian gần đây do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã làm diện tích rừng ngập mặn tãi xã Tam Hải suy giảm một cách nhanh chóng. Vì vậy đã làm cho vai trò của rừng ngập mặn bị suy giảm một cách đáng kể. Trong khi đó việc tìm kiếm giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả rừng ngập mặn tại địa phương đang được các nhà khoa học, nhà quản lý và người dân địa phương quan tâm.
Xuất phát từ cơ sở thực tiễn trên chúng tôi tiến hành chọn đề tài "Nghiên cứu thực trạng rừng ngập mặn tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam và đề xuất giải pháp quản lý "nhằm đánh giá thực trạng về diện tích, thành phần loài, sự phân bố và chính sách quản lý RNM tại địa phương để làm cơ sở đề xuất các giải pháp quản lý và khai thác, sử dụng RNM một cách hiệu quả.
41 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3671 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu thực trạng rừng ngập mặn tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam và đề xuất giải pháp quản lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
RNM : Rừng ngập mặn
CNM : Cây ngập mặn
DTTN : Diện tích tự nhiên
TM – DV : Thương mại và dịch vụ
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
NN&PTNN : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
ĐKTN : Điều kiện tự nhiên
KTXH : Kinh tế xã hội
GPS : Thiết bị định vị
OTC : Ô tiêu chuẩn
KHCN : Khoa học công nghệ
TVC : Thực vật chính
TVTG : Thực vật tham gia
UBNN : Uỷ ban nhân nhân
BTB : Bắc trung bộ
NTB : Nam trung bộ
ĐBSCL : Đồng bằng sông cửu long
ĐBBB : Đông bằng bắc bộ
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Diện tích RNM trên thế giới .9
Bảng 1.2. Thống kê số cơn bão đổ bộ vào ven biển khu vực III 11
Bảng 1.3. Lượng mưa bình quân năm (tiểu khu 3) 15
Bảng 1.4 .Diện tích đất ngập mặn và rừng ngập mặn ở việt nam 17
Bảng 1.5. Diện tích RNM trên thế giới 33
Bảng 1.6. Diện tích RNM trên lãnh thổ Việt Nam 35
Bảng 1.7. Diện tích RNM từ năm 1990 – 2001 của các tỉnh thuộc ĐBSCL 37
Bảng 1.8. Chế độ thủy văn của xã Tam Hải 39
Bảng 1.9. Thể hiện cơ cấu và thành phần lao động của xã Tam Hải 40
Bảng 3.1.Thành phần các loài cây ngập mặn của xã Tam Hải vào năm 2010 49
Bảng 3.2. Tỷ lệ các nhóm thực vật ngập mặn tại RNM xã tam hải 50
Bảng 3.3. Công thức tổ thành ở một số vị trí điều tra. 51
Bảng 3.4. Mật độ tầng cây cao của các ô điều tra 52
Bảng 3.5. Độ tàn che của tầng cây cao tại các ô điều tra 54
Bảng 3.6. Mật độ cây tái sinh dưới tán rừng tại các ô điều tra 54
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Trái Đước 25
Hình 1.2. Cây đước 25
Hình 1.3. Trái mắm 26
Hình 1.4. Cây mắm 26.
Hình 1.5. Cây bần 27
Hình 1.6. Hoa Bần 27
Hình 1.7. Trái Bần 28
Hình 1.8. Cây Vẹt 28
Hình 1.9. Trái vẹt 28
Hình 1.10. Cây sam Biển 29
Hình 1.11. Cây rau muống biển 29
Hình 1.12. Cây giá 30
Hình 1.13. Cây cóc vàng 31
Hình 1.14. Hoa cây cóc vàng 31
Hình 1.15: Cây tra 31
Hình 1.16: Cây ráng 32
Hình 1.17 : Sơ đồ thể hiện diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam 35
Hình 1.18. Bản đồ xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam 38
Hình 2.2. Lập ô tiêu chuẩn 44
Hình 3.1. Sơ đồ trắc ngang địa điểm nghiên cứu tại thôn 4 – xã Tam Hải 52
Hình 3.2. Sơ đồ trắc ngang địa điểm nghiên cứu tại thôn 4 – xã Tam Hải 53
Hình 3.3. Sơ đồ Venn về mối quan hệ hiện tại giữa các tổ chức 55
Hình 3.4: Sơ đồ Venn mong muốn 56
Hình 3.5. Phá rừng ngập mặn làm đầm nuôi tôm 58
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Khung tiến trình nghiên cứu 43
Sơ đồ 3.1. Cây vấn đề về diện tích RNM tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam 57
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái đặc biệt mà Việt Nam là một trong những quốc gia được thiên nhiên ban tặng. Rừng ngập mặn chỉ có ở các nước nhiệt đới, á nhiệt đới và có vai trò bảo vệ môi trường và con người.
Ở nước ta với bờ biển dài 3620km đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế biển và cho sự phát triển của rừng ngập mặn, với việc hình thành nhiều bãi bồi đã làm cho diện tích rừng ngập mặn tăng lên một cách đáng kể tạo nên sự phong phú hơn về số lượng loài và thành phần cây ngập mặn. Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sống cho các loài động thực vật và cung cấp nguồn thức ăn cho con người, bên cạnh đó rừng ngập mặn có vai trò chắn sóng, chống cát bay và điều hòa không khí và cũng là nhân tố chống lại biến đổi khí hậu.
Hiện nay, trong quá trình phát triển kinh tế với tốc độ đô thị hóa diễn ra ngày càng mạnh, cùng với tốc độ gia tăng dân số nên con người đã khai thác và sử dụng rừng ngập mặn vào nhiều mục đích khác nhau làm cho diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp và thành phần các loài cây ngập mặn bị suy giảm. Gần đây vấn đề nuôi tôm của người dân đang gặp rất nhiều khó khăn do tình trạng ô nhiễm môi trường quanh các hồ nuôi tôm và tình trạng dịch bệnh của tôm, nguyên nhân là do rừng ngập mặn đã bị khai thác nên không còn có chức năng bảo vệ môi trường sống, hơn nữa giữa các cộng đồng nuôi tôm đang có sự mâu thuẫn rất lớn nên vấn đề nuôi tôm chưa đạt hiệu quả.
Xã tam Hải là một trong những xã có diện tích rừng ngập mặn lớn của huyện Núi Thành. Do đó vai trò của rừng ngập mặn đối với môi trường và con người là rất lớn. Tuy nhiên thời gian gần đây do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã làm diện tích rừng ngập mặn tãi xã Tam Hải suy giảm một cách nhanh chóng. Vì vậy đã làm cho vai trò của rừng ngập mặn bị suy giảm một cách đáng kể. Trong khi đó việc tìm kiếm giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả rừng ngập mặn tại địa phương đang được các nhà khoa học, nhà quản lý và người dân địa phương quan tâm.
Xuất phát từ cơ sở thực tiễn trên chúng tôi tiến hành chọn đề tài "Nghiên cứu thực trạng rừng ngập mặn tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam và đề xuất giải pháp quản lý "nhằm đánh giá thực trạng về diện tích, thành phần loài, sự phân bố và chính sách quản lý RNM tại địa phương để làm cơ sở đề xuất các giải pháp quản lý và khai thác, sử dụng RNM một cách hiệu quả.
CHƯƠNG1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Tổng quan về rừng ngập mặn
* Khái niệm về rừng ngập mặn
Rừng ngập mặn (RNM) là hệ sinh thái quan trọng có năng suất cao ở vùng cửa sông ven biển nhiệt đới nhưng rất nhạy cảm với những tác động của con người và thiên nhiên [1].
1.2. Sự phân bố của rừng ngập mặn
Sự sinh trưởng và phát triển của RNM đều chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố tự nhiên, nhưng ở một khu vực nào đó thì RNM có thể chịu sự tác động của nhiều nhân tố hoặc có thể chịu ảnh hưởng của một vài nhân tố như nhiệt độ, lượng mưa, chế độ thủy triều…. Những nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phân bố RNM. Bên cạnh đó RNM chịu sự ảnh hưởng bởi các môi trường đó là môi trừờng không khí, môi trường nước và môi trường đất. Sau đây ta có thể dẫn chứng về sự phân bố RNM chịu sự tác động của môi trường bên ngoài.
RNM phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận xích đạo nên đối với môi trường không khí nhiệt độ là yếu tố đặc trưng, ở những nơi có biên độ nhiệt thích hợp và ít dao động, cây ngập mặn có điều kiện sinh trưởng và phát triển tốt cho nên hạt giống khi phát tán có điều kiện nảy mầm ở mức tối ưu nhất, ngược lại ở những nơi có biên độ dao động nhiệt lớn thì quá trình sinh trưởng, phát triển sẽ diễn ra chậm cho nên cũng ảnh hưởng tới sự phân bố của RNM.
Đối với môi trường nước là một môi trường cung cấp cho cây ngập mặn những chất dinh dưỡng cần thiết để các loài cây ngập mặn có điều kiện sinh trưởng và phát triển tốt. Trong môi trường này thì lượng mưa đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng và duy trì độ mặn để hạt giống các loài cây ngập mặn ở những khu vực khác có điều kiện cư trú và nảy mầm.
Với môi trường đất trong một quần xã RNM phụ thuộc vào nhiều yếu tố địa hình và địa mạo. Sự thay đổi mực nước biển hoặc quá trình xói mòn, sạc lở có thể tác động trực tiếp đến sự phân bố của RNM. Các quần xã RNM phát triển tốt nhất đối với những bãi bồi có đảo che chắn sẽ tạo điều kiện cho cây ngập mặn phát triển tốt. Nhìn chung, RNM chịu sự chi phối của nhiều nhân tố, vì vậy để hiểu rõ sự phân bố RNM chúng ta cần quan tâm đến những nhân tố ảnh hưởng sau đây:
1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phân bố RNM
Các cây ngập mặn sống ở vùng chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất liền. Tác động các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến sự tồn tại và phân bố của chúng. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có ý kiến thống nhất về vai trò, mức độ tác động của từng nguyên tố. Một khó khăn lớn thường gặp là các loài cây ngập mặn có biên độ thích nghi rất rộng với khí hậu, đất, nước, độ mặn. Do đó khi dựa vào một khu phân bố cụ thể nào đó để nhận định về tác động của môi trường, có thể không áp dụng được ở những vùng khác hoặc không thể suy ra tính chất chung cho thảm thực vật này.
1.2.1.1. Nhiệt độ không khí
Với nhiệt độ tác động lên cả hai quá trình quang hợp và hô hấp, điều chỉnh phần lớn quá trình trao đổi chất và năng lượng nội tại trong cơ thể thực vật. Tác động quan trọng nhất của nó là có thể điều chỉnh quá trình tiết muối ở lá và hô hấp ở rễ. Nhiệt độ tác động lên sự phân bố loài và đặc biệt thềm nhiệt độ mà ở đó chồi non xuất hiện [2].
Các loài cây ngập mặn phong phú nhất và kích thước lớn nhất ở các vùng xích đạo và nhiệt đới ẩm, cận xích đạo là những nơi có nhiệt độ không khí cao và biên độ hẹp, nhiệt độ thích hợp cho hoạt động sinh lý ở cây ngập mặn là 25 – 28 0C nếu nhiệt độ có sự thay đổi trong môi trường cao quá hoặc thấp quá cũng gây bất lợi cho quá trình phát triển của RNM.[1]
Dựa trên sự phân bố về loài thì RNM thuộc nhóm nhiệt đới và cận xích đạo số loài nằm sâu xuống phía nam hoặc lên phía bắc của vùng cận ôn đới. Thực chất có rất ít số liệu nói về tác động của nhiệt lên sự sinh trưởng và phát triển của chồi. Các nghiên cứu thường chủ yếu đề cập là sự tăng trưởng của lá. Khi nghiên cứu sự tăng trưởng của lá mới ra hàng tháng của chín loài cây ngập mặn ở Glastone ( vĩ độ 240 nam) Saenger (1987) cho thấy mối quan hệ khá rõ giữa tăng trưởng và nhiệt độ không khí.
Nhiệt độ không khí có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, số lượng loài cũng như ảnh hưởng đến sự phân bố của RNM. Nhiệt độ thích hợp cho hoạt động sinh lý của lá các loài cây ngập mặn là 25 - 280 như ở Nam bộ. Số loài cây ngập mặn ở miền Bắc Việt Nam ít hơn và có kích thước cây bé hơn ở miền Nam vì chịu ảnh hưởng của nhiệt độ thấp trong mùa đông và nhiệt độ cao vào mùa hè (30 - 340).[1]
Từ những đánh giá trên ta có thể nhận thấy rằng nhiệt độ đóng một vai trò quan trọng đối với sự phân bố của RNM vì vậy ở những khu vực nào biên độ nhiệt dao động hẹp sẽ là điều kiện để RNM có điều kiện sinh trưởng và phát triển.
1.2.1.2. Lượng mưa
Tuy nhiên, cây ngập có mặt ở vùng khí hậu ẩm uớt cũng như ở vùng khô hạn nhưng sự phân bố tối ưu của các loài cây ở vùng xích đạo ẩm như Trung Mỹ, Malaysia, các quần đảo Indonesia. Ở bán cầu bắc CNM phát triển tốt ở những vùng mà lượng mưa hằng năm từ 1800 – 3.000mm (Aksornkoae, (1993) còn ở vùng nhiệt đới, RNM phát triển ở nơi có mưa nhiều ở các nước như là Thái Lan, Australia và Việt Nam, RNM phát triển mạnh ở những nơi có lượng mưa trong năm cao (1800 – 2500mm), vùng ít mưa, số lượng loài và kích thước của cây giảm.[1]
Ở ven biển Nam Bộ, trong nhiệt độ bình quân năm ở Cà Mau và Vũng Tàu chênh lệch nhau rất ít (chỉ 0,7 0C), nhưng lượng mưa ở Cà Mau (2.360 mm/năm) lớn hơn nhiều so với Vũng Tàu (1.375 mm/năm) nên RNM ở Cà Mau phong phú hơn và kích thước cây cũng lớn hơn.
1.2.1.3. Chế độ gió
Gió ảnh huởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự hình thành RNM. Gió làm tăng cuờng độ thoát hơi nuớc, giúp cho việc phát tán hạt và cây giống, làm thay đổi lực dòng triều và dòng chảy ven bờ, vận chuyển phù sa, trầm tích tạo nên các bãi bồi mới cho cây ngập mặn phát triển. Gío làm tăng lượng mưa ở RNM, thuận lợi cho RNM phân bố rộng, có nhiều loài, đặc biệt các loài bì sinh. Gió mùa đông bắc về mùa đông đêm theo không khí lạnh từ phía Bắc xuống Miền Nam Việt Nam, ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và phân bố của thực vật nhiệt đới nói chung và RNM nói riêng.[1]
Ngoài ra, gió mạnh có tác dụng làm xáo trộn độ mặn mặt nước trên sông, khiến cho quy luật phân bố theo chiều sâu bị biến đổi, ảnh đến sự phân bố các loài cây. Ví dụ như: ở Bến Tre, các cây chịu mặn phân bố sâu vào các bãi lầy phía trong kênh rạch, đẩy các loài nước lợ ra phía cửa sông hoặc sâu trong nội địa.
1.2.1.4. Ánh sáng
Ánh sáng ảnh hưởng đến sự quang hợp và các quá trình sinh lý khác của cây như hô hấp, thoát hơi nước… Cường độ ánh sáng thích hợp cho cây ngập mặn sinh trưởng và phát triển từ 3.000 – 3.800 kcal/m2/ ngày (Aksornkoae, 1993). Ở miền nam Việt Nam CNM sinh trưởng tốt vì có cường độ ánh sáng từ 3.000 – 3.800mm Kcal/ m2/ ngày [1].
Tuy nhiên về mùa khô, ánh sáng mạnh là nhân tố hạn chế sự sinh trưởng của cây ngập mặn vì làm tăng nhiệt độ không khí, đất, nước, nước bốc hơi nhiều khi triều xuống khiến cho đất và cây vốn thiếu nước ngọt lại còn thiếu thêm .
1.2.1.5. Mây
Mây có liên quan đến lượng mưa. Mây dày sẽ giảm cường độ ánh sáng, nhiệt độ không khí và đất, giữ độ ẩm cao nên hàm lượng muối trong đất không tăng, cây giảm thoát hơi nước, kéo theo sự hạ thấp lượng muối thừa xâm nhập vào cơ thể.[2]
1.2.2. Tác động của các yếu tố thuỷ văn
1.2.2.1. Thủy triều
Thuỷ triều là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phân bố và sinh trưởng của RNM, vì không những tác động trực tiếp lên thực vật do mức độ và thời gian ngập, mà còn ảnh hưởng nhiều yếu tố khác như kết cấu, độ mặn của đất, sự bốc hơi nước, các sinh vật khác trong rừng.
Nghiên cứu những đặc điểm của thuỷ triều liên quan đến sự phân bố và phát triển của RNM việt Nam và một số nước Đông Nam Á, Phan Nguyên Hồng (1991) có nhận xét: Khi điều kiện khí hậu và đất không có sự khác nhau lớn, thì vùng có chế độ bán nhật triều cây sinh trưởng tốt hơn vùng có chế độ nhật triều.
Biên độ triều ảnh hưởng rõ rệt ảnh hưởng rõ rệt đến sự phân bố của cây ngập mặn. Các lưu vực sông có biên độ triều thấp như ở miền trung trung bộ và tây bắc bán đảo Cà Mau (0,5-1m) khả năng vận chuyển trầm tích và nguồn giống kém, do đó RNM phân bố trong một pham vi rất hẹp. Chỉ ở những nơi có biên độ triều cao trung bình (2-3m), địa hình phẳng thì cây ngập mặn phân bố rộng và sâu vào đất liền, ví dụ ở lưu vực sông Cửu Long và phía đông Cà Mau.[5]
Các dòng triều chịu tác đông của gió, nhất là gió mùa và lưu lượng sông vào mùa mưa. Mặt khác dòng triều chịu tác động đến một số yếu tố khác nhau như nhiệt độ đất, độ mặn, sự vận chuyển trầm tích và dinh dưỡng ở trong và ngoài vùng RNM, ngoài ra dòng triều cũng là một nhân tố quan trọng trong việc phát tán hạt và cây con.
1.2.2.2. Dòng nước đại dương
Các dòng nước đại dương có tác dụng lớn trong việc phân bố RNM trên thế giới, như các nước từ Ấn Độ Dương và từ Biển Đông. Nhờ sự vận chuyển của các dòng nước này mà hệ thực vật ngập mặn ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương có thành phần gần giống nhau. Dòng chảy ven bờ về mùa mưa đưa nguồn giống lên phía Bắc, đến vĩ tuyến 12 thì chuyển hướng ra khơi và đi lên phía đảo Hải Nam, do đó một số loài không phân bố ở phía bắc được như: Đước (Rhizophoraapiculata), đưng (R.mucronata), vẹt tách (Bruguiera pariflora)... Trong khi chúng có thể phân bố ở đảo Hải Nam
1.2.2.3. Dòng nước ngọt
Dòng nước ngọt do các sông, rạch đem ra RNM ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của các sinh vật sống ở đó, vì nước đã đưa các chất phù sa cần thiết cho chúng. Mặc khác, nước ngọt làm loãng độ mặn của nước biển, phù hợp với sự phát triển của nhiều loài cây trong từng giai đoạn sống nhất định.Khi dòng chảy từ sông vào RNM bị giảm hoặc không còn nữa, thì một số loài cây ngập mặn sẽ sống còi cọc hoặc chết dần, nhiều loài động vật trong vùng RNM bị chết hoặc bỏ đi nơi khác.[2]
Độ mặn là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, tỷ lệ sống và phân bố RNM.
Theo nghiên cứu của ông Phan Nguyên Hồng, (1991) chia các loài cây ngập mặn Việt Nam thành 2 loại: có biên độ muối rộng và biên độ muối hẹp.
Loại có biên độ muối rộng gồm:
- Nhóm chịu độ mặn cao (10 – 35 0/00 hoặc hơn) gồm một số loài mắm, đâng, đưng, dà quánh, vẹt trụ…
- Nhóm chịu độ mặn cao trung bình (15 – 30 0/00) có đước, vẹt, tách, vẹt dù, sú…
- Nhóm chịu độ mặn tương đối thấp (7 – 20 0/00) có trang, vẹt, tách, ô rô, quao nước, cốc kèn…
Loại có biên độ muối hẹp gồm:
- Nhóm có cây thân gỗ mọng nước, chịu độ mặn cao (20 – 33 0/00) có bần trắng, bấn ổi.
- Nhóm cây thảo mọng nước chịu mặn cao ( 25 – 35 0/00 ) hoặc hơi nước muốn biển, sam biển, hến hải nam.
- Nhóm cây nước lợ điển hình (có độ mặn 5 – 15 0/00 hoặc thấp hơn) gồm dừa nước, bần chua, mái dầm…
- Nhóm cây chịu nước lợ sống trên đất cạn, độ mặn thấp (1 – 10 0/00) từ nội địa phát tán ra vùng đất ẩm ven sông nước lợ.
1.3. Thể nền
Các loài cây ngập mặn sống trên thể nền ngập nước định kỳ khác nhau như sét, bùn, cát thô lẫn sỏi đá, bùn ở cửa sông bờ biển, đất than bùn, san hô. Tuy nhiên RNM phát triển rộng nhất trên thể nền bùn sét có mùn bã hữu cơ. Loại đất này thường gặp dọc các bờ biển, tam giác châu thổ, các cửa sông hình phễu và vịnh kín sóng.
Sự phân bố các loài cây ngập mặn có liên quan rất nhiều đến hàm lưọng O2, SO2 ,độ mặn của thể nền. nói chung môi trường còn thoáng khí cây ngập mặn sinh trưởng tốt, nhưng một số loài cây có rễ thở (như loài mắm, bần)vẫn có khả năng thích nghi với môi trường yếm khí vừa phải.[2]
1.4. Địa hình
RNM phát triển rộng ở vùng bờ biển nông, ít sóng, gió như trong các vịnh các cửa sông hình phểu, sau các mũi đất, eo biển hẹp hoặc dọc bờ biển có các đảo che chắn ở ngoài (bờ biển Quảng Ninh). Vùng bờ biển Miền Nam Việt Nam mặc dù không có đảo nổi nhưng nhờ có vỉa san hô ngầm nằm dọc theo các thềm lục địa, làm yếu lực của sóng, ít chịu ảnh hưởng của bão (trừ trường hợp khí hậu biến đổi bất thường như năm 1997), nên RNM cũng phát triển.[1]
1.5. Tác động của các nhân tố sinh học
Thành phần sinh học trong các bãi lầy cửa sông, ven biển đã góp phần đáng kể trong việc hình thành và phân bố RNM.
Nhờ những đặc điểm thích nghi với độ ngập triều sâu, nồng độ muối cao, chống đỡ tốt với tác động của sóng gió, thủy triều nên các thực vật tiên phong như cỏ biển, vài loài mắm, bần đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho đất ổn định để cho các quần xã cây ngập mặn đến sau phát triển.
Vi sinh vật như nấm, vi khuẩn có ý nghĩa to lớn trong việc phân hủy các chất hữu cơ trong phù sa, trầm tích thành hợp chất khoáng cho cây. Mặc khác, chúng phân hủy các chất rơi rụng của cây ngập mặn, tạo ra những sản phẩm có lượng đạm cao, thức ăn cho các động vật vùng triều.
Tuy nhiên một số vi sinh vật đã sử dụng oxy trong quá trình hô hấp làm lượng oxy trong đất bùn vốn ít ỏi đã bị giảm sút và đất trở nên yếm khí.
Lượng oxy trong đất đã bị các vi sinh vật hô hấp bằng oxy sữ dụng hết, các vi sinh vật sử dụng nitơ ở dạng nitrat vì nitrit bắt đầu hoạt động mạnh. Chúng chuyển nitrat thành nitrit và cuối cùng có thể biến đổi thành amon. Đó là dạng đạm rất khó sữ dụng và độc đối với một số loài cây ngập mặn.
Khi nitrat đã bị chuyển hóa hết sang dạng amon, các vi sinh vật khử sắt hoạt động thay thế dần các vi sinh vật khử nitơ. Chúng khử oxy sắt thành các dạng sắt khử rất dễ hòa tan. Khi sắt còn ở dạng oxy hóa chúng kết hợp với photpho, tanin và các hợp chất hữu cơ khác do rễ tiết ra nên rất dễ hòa tan. Do vậy photpho có nhiều trong đất yếm khí hơn đất thoáng khí.
Tiếp sau hoạt động của các vi sinh vật khử sắt là hoạt động của vi sinh vật khử mangan, và sau đó là vi sinh vật khử lưu huỳnh. Vi sinh vật khử lưu huỳnh sử dụng sulphat như chất trao đổi điện tử trong quá trình hô hấp. Lưu huỳnh bị khử và chuyển thành sulphuahidro, đó là một chất độc đối với cả động vật và thực vật.
Trong một số ít trường hợp tiếp theo hoạt động của các vi sinh vất khử metan. Các vi sinh vật này khử cacbon thành khí metan-rất độc với sinh vật. Nhiều loài động vật làm tổ trong RNM, rác rưởi từ tổ và phân của chúng được phân hủy thành nguồn dinh dưỡng cho các cây ngập mặn, chúng còn có tác dụng tiêu diệt sâu bọ.
Ong Bướm và chim là những tác nhân quan trọng trong việc thụ phấn cho hoa cây ngập mặn.
Một số loài động vật đào hang trong đất RNM và giữ nước ở đó đã làm tăng độ ẩm của đất trong thời kỳ nước kém. Một số động vật là nguyên nhân hạn chế sự phát triển hoặc tái sinh của cây ngập mặn vì chúng dùng các bộ phận của cây làm thức ăn, hoặc bám vào cây con khiến chúng đỗ ngã.
Trong các nhân tố sinh thái thì khí hậu, thủy triều, độ mặn và đất đóng vai trò quiyết định sự sinh trưởng và phân bố của thảm thực vật RNM. Các nhân tố khác góp phần tích cực trong việc phát triển hay hạn chế của kiểu thảm thực vật này.
1.6. Sự phân bố của rừng ngập mặn trên thế giới và việt nam.
1.6.1 .Sự phân bố của rừng ngập mặn trên thế giới
Rừng ngập mặn (RNM) có vai trò rất to lớn trong việc đảm bảo cân bằng sinh thái cho vùng đất ngập nước ven biển đồng thời bảo vệ sự ổn định của đới bờ biển, vì vậy việc bảo tồn và phát triển RNM vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu cấp thiết nhất trong thời gian biến đổi khí hậu lớn trên toàn cầu như hiện nay. Đối với nghiên cứu (Phan Nguyên Hồng,(1987) RNM phân bố chủ yếu ở vùng xích đạo và nhiệt đới hai bán cầu.
Theo ông Achim Steiner (1987) cho biết hiện có khoảng 150.000km2 RNM được tìm thấy tại 123 nước trên thế giới. Khu vực tập trung RNM lớn nhất trên t