1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi thị trường tài chính Việt nam chưa thật sự phát triển thì vấn đề về vốn cho hoạt động của doanh nghiệp luôn là một bài toán làm đau đầu các nhà quản trị.
Thực tế cho thấy việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp sản xuất là một đòi hỏi bức thiết trong bối cảnh hội nhập để nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như năng suất lao động, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Song muôn thuở nan giải vẫn là câu hỏi: lấy vốn ở đâu? Hiện nay lượng vốn dài hạn đầu tư cho các dự án này ở các doanh nghiệp Việt Nam hết sức khiêm tốn. Kênh tài trợ quen thuộc vẫn là đi vay ở các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới ra đời không có đủ tài sản đảm bảo cũng như uy tín thì việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng quả là khó khăn. Trong những trường hợp như vậy, đi thuê tài chính có thể là một giải pháp tối ưu.
Vậy thật ra thuê tài chính khác gì với thuê thông thường mà nó lại có khả năng là một kênh tín dụng hữu hiệu cho doanh nghiệp? Và thực trạng cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
2. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU
2.1 Mục đích
- Tìm hiểu về vấn đề cho thuê tài chính và thực trạng thuê tài chính của nước ta hiện nay.
- Trang bị những kiến thức căn bản về vấn đề thuê tài chính.
2.2 Yêu cầu
- Tập hợp sức mạnh tập thể của các thành viên trong nhóm, có sự phân công công việc cụ thể, rõ ràng giữa các thành viên. Các thành viên phải có trách nhiệm hoàn thành công việc của mình trước thời hạn nhóm quy định.
- Rèn luyện phương pháp nghiên cứu khoa học, kỹ năng thuyết trình.
- Nắm vững những nội dung cơ bản về thuê tài chính
- Tham gia khảo sát, thu thập, xử lý thông tin qua nghiên cứu, tham khảo tư liệu qua điều tra, tìm hiểu qua sách vở, các phương tiện thông tin đại chúng
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu về nghiệp vụ cho thuê tài chính nói chung và nghiệp vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam nói riêng.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong khuôn khổ quy định của tiểu luận, với thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài: “Nghiệp vụ cho thuê tài chính” là đề tài mới. Vì vậy, nhóm chủ yếu nghiên cứu những vấn đề cơ bản của nghiệp vụ cho thuê tài chính.
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài, nhóm chúng em đã hoàn thành cuốn tiểu luận “Nghiệp vụ cho thuê tài chính”theo đúng yêu cầu và đúng thời gian quy định.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6990 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiệp vụ cho thuê tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi thị trường tài chính Việt nam chưa thật sự phát triển thì vấn đề về vốn cho hoạt động của doanh nghiệp luôn là một bài toán làm đau đầu các nhà quản trị.
Thực tế cho thấy việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp sản xuất là một đòi hỏi bức thiết trong bối cảnh hội nhập để nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như năng suất lao động, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Song muôn thuở nan giải vẫn là câu hỏi: lấy vốn ở đâu? Hiện nay lượng vốn dài hạn đầu tư cho các dự án này ở các doanh nghiệp Việt Nam hết sức khiêm tốn. Kênh tài trợ quen thuộc vẫn là đi vay ở các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới ra đời không có đủ tài sản đảm bảo cũng như uy tín thì việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng quả là khó khăn. Trong những trường hợp như vậy, đi thuê tài chính có thể là một giải pháp tối ưu.
Vậy thật ra thuê tài chính khác gì với thuê thông thường mà nó lại có khả năng là một kênh tín dụng hữu hiệu cho doanh nghiệp? Và thực trạng cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
2. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU
2.1 Mục đích
- Tìm hiểu về vấn đề cho thuê tài chính và thực trạng thuê tài chính của nước ta hiện nay.
- Trang bị những kiến thức căn bản về vấn đề thuê tài chính.
2.2 Yêu cầu
- Tập hợp sức mạnh tập thể của các thành viên trong nhóm, có sự phân công công việc cụ thể, rõ ràng giữa các thành viên. Các thành viên phải có trách nhiệm hoàn thành công việc của mình trước thời hạn nhóm quy định.
- Rèn luyện phương pháp nghiên cứu khoa học, kỹ năng thuyết trình.
- Nắm vững những nội dung cơ bản về thuê tài chính
- Tham gia khảo sát, thu thập, xử lý thông tin qua nghiên cứu, tham khảo tư liệu qua điều tra, tìm hiểu qua sách vở, các phương tiện thông tin đại chúng…
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu về nghiệp vụ cho thuê tài chính nói chung và nghiệp vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam nói riêng.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong khuôn khổ quy định của tiểu luận, với thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài: “Nghiệp vụ cho thuê tài chính” là đề tài mới. Vì vậy, nhóm chủ yếu nghiên cứu những vấn đề cơ bản của nghiệp vụ cho thuê tài chính.
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài, nhóm chúng em đã hoàn thành cuốn tiểu luận “Nghiệp vụ cho thuê tài chính”theo đúng yêu cầu và đúng thời gian quy định.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUÊ TÀI CHÍNH
Nguồn gốc và thời gian xuất hiện Thuê tài chính:
Thuê tài chính là một hình thức đang được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Ðức, Thụy Ðiển... Loại hình cho thuê tài chính đã được một số công ty tài chính đưa ra thị trường tài chính vào những năm cuối những năm 50 đầu những năm 60 của thế kỷ 20 với tên gọi là thuê tài chính
Đầu thập kỷ 50 của thế kỷ 20, giao dịch thuê mua đã có những bước nhảy vọt. Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính được sáng tạo ra trước tiên ở Mỹ vào năm 1952. Sau đó nghiệp vụ tín dụng thuê mua phát triển sang châu âu và phát triển mạnh mẽ tại đó từ những năm của thập kỷ 60. Tín dụng thuê mua cũng phát triển mạnh mẽ ở Châu Á và nhiều khu vực khác từ đầu thập kỷ 70. Ngành công nghiệp thuê mua có giá trị trao đổi chiếm khoảng 350 tỷ USD vào năm 1994. Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê mua thiết bị chiếm khoảng 25 - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động cho thuê tài chính phát triển nhanh là do nó thể hiện hình thức tài trợ có tính chất an toàn cao tiện lợi, và hiệu quả cho các bên giao dịch.
Tại Việt Nam nghiệp vụ cho thuê tài chính hay còn gọi là tín dụng thuê mua đã được ngân hàng NN-VN cho áp dụng thí điểm bởi quyết định số 149/QĐ - ngân hàng ngày 17/5/1995. Đến ngày 02/05/20001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính.
1.2 Khái niệm và đặc điểm của Thuê tài chính:
1.2.1 Khái niệm:
Cho thuê tài chính là một hình thức tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các hoạt động khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị và bất động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê đã được hai bên thoả thuận, và không được huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại, hoặc thuê tiếp các tài sản đó theo các điều kiện trong hợp đồng thuê.
1.2.2 Đặc điểm của Thuê tài chính:
- Cho thuê tài chính là một dạng cho thuê tài sản, nhưng khác về căn bản so với các loại cho thuê tài sản khác là có sự chỉ định về cơ bản các rủi ro và các lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê.
- Xét dưới hình thức cấp vốn, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng thuê tài sản (như máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, động sản khác…) giữa bên cho thuê là công ty cho thuê tài chính (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) với khách hàng thuê (khách hàng có nhu cầu thuê thường là các doanh nghiệp, các bên đối tác trong liên kết kinh tế).
- Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng
- Công ty cho thuê tài chính giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê, bên thuê có nhiệm vụ nộp tiền thuê (tiền trích khấu hao tài sản cho thuê) cho công ty thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn cho thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các thỏa thuận trong các hợp đồng thuê.
- Loại hình cho thuê tài chính có lợi thế là người thuê không cần bỏ toàn bộ số tiền ra một lúc để có máy móc, thiết bị, đồng thời cũng không cần phải thế chấp tài sản như trong các dịch vụ vay vốn khác; bên đi thuê tài chính không phải chịu những rủi ro do sự mất giá của tài sản, hao mòn tự nhiên…
1.3 Các hình thức Thuê tài chính:
- Thuê trực tiếp: máy móc, trang thiết bị do chính doanh nghiệp lựa chọn và thỏa thuận với công ty cho thuê để mua tài sản đúng nhãn hàng mình cần.
- Thuê và bán lại: công ty cho thuê tài chính sẽ mua tài sản của doanh nghiệp, trả cho doanh nghiệp một khỏan tiền mặt rồi cho doanh nghiệp thuê lại tài sản đó.
- Thuê tài sản mua bằng vốn vay: trong hình thức này có sự tham gia của ba bên: bên đi thuê, bên cho thuê và nhà cho vay. Ở đây nghĩa vụ của bên đi thuê không có gì thay đổi, chỉ khác là bên cho thuê đã sử dụng hợp đồng cho thuê để thế chấp cho nhà cho vay nhằm đảm bảo một kỳ khoản vay nào đó.CHƯƠNG 2: LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ CỦA THUÊ TÀI CHÍNH
2.1 Lợi ích của Thuê tài chính:
Ưu thế nổi bật của nghiệp vụ cho thuê tài chính là hạn chế rủi ro, tiết kiệm chi phí, thủ tục đơn giản, không thế chấp. Ngoài ra, doanh nghiệp đi thuê còn được hưởng các dịch vụ tư vấn miễn phí. Có thể nói, cho thuê tài chính đã và đang giúp không ít doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong đổi mới thiết bị, công nghệ. Đặc biệt, dịch vụ này không đòi hỏi có sự bảo đảm của tài sản trước. Mức phí thuê cũng tương đương lãi vay trung, dài hạn của ngân hàng nên thích hợp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ kéo dài thời gian trả nợ.
Sau khi hết hạn thuê, đơn vị thuê còn được quyền mua lại thiết bị đó với giá đã thỏa thuận trước hoặc trả lại công ty cho thuê. Trong khi thuê, nếu chưa khai thác hết công suất của thiết bị, đơn vị thuê còn có thể cho doanh thứ hai thuê lại (thuê thứ cấp) để giảm phí đóng góp cho công ty cho thuê.
Bên cạnh đó, hầu hết công ty cho thuê tài chính đều có mạng lưới cung cấp thiết bị rộng rãi trong, ngoài nước, có chuyên viên giỏi, am hiểu máy móc, giá cả nên có thể tư vấn tốt cho đơn vị đi thuê.
Tóm lại, hoạt động cho thuê tài chính là một loại hình tín dụng có nhiều ưu điểm, đặc biệt phát huy hiệu quả trong hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư chiều sâu, máy móc, thiết bị… để mở rộng sản xuất.
2.2 Hạn chế của Thuê tài chính:
Trên thị trường Việt Nam hiện có 12 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động, trong đó có 6 công ty trực thuộc các ngân hàng thương mại nhà nước, 4 công ty có vốn đầu tư nước ngoài và 2 công ty thuộc ngân hàng thương mại cổ phần. Ngoài ra còn có rất nhiều các công ty tài chính, quỹ đầu tư đã và đang tiếp tục được phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Các doanh nghiệp này kinh doanh năm nào cũng đạt lợi nhuận cao, lớn mạnh cả về lượng và về chất. Đặc biệt, họ có thể đáp ứng được nhu cầu vốn nội, tuy nhiên, không ít các doanh nghiệp, hiệp hội vẫn cho rằng rất khó tiếp cận được nguồn vốn này.
Do không cần tài sản thế chấp nên cho thuê tài chính rất phù hợp với các đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp mới thành lập. Tuy nhiên, do cả hai phía: các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường hạn chế về năng lực, trình độ quản lý, ý thức chấp hành luật pháp, chế độ tài chính kế toán chưa cao nên gây khó khăn cho các công ty cho thuê tài chính trong việc đánh giá thẩm định tính khả thi của dự án cũng như nhân thân của khách hàng. Về phía các công ty cho thuê tài chính chưa tạo cho khách hàng hiểu rõ hiệu quả, lợi ích của cho thuê tài chính mang lại và một khó khăn nữa là đối tượng cho thuê còn quá đơn điệu (máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, một số động sản khác)
Các doanh nghiệp trong nước phản ảnh rằng họ vẫn khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn, có khi để có được một nguồn vốn cho đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp phải "trả giá" rất cao. Trong thời gian qua việc cung ứng vốn trung và dài hạn thông qua kênh cho thuê tài chính cho các doanh nghiệp bị hạn chế do nhiều nguyên nhân. Cụ thể:
- Thứ nhất, mặc dù đã xuất hiện 13 năm trên thị trường Việt Nam nhưng sự quảng bá, giới thiệu để cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ về lĩnh vực cho thuê tài chính còn hạn chế.
- Thứ hai, mạng lưới hoạt động của các công ty cho thuê tài chính mới chỉ có mặt tại một vài trung tâm kinh tế lớn, chưa trải rộng trong cả nước cũng như chưa có sự phối hợp với các ngân hàng thương mại để có thể quảng bá hoặc bán trọn gói sản phẩm.
- Thứ ba, trình độ của cán bộ kinh doanh trong các công ty cho thuê tài chính chưa chuyên nghiệp, không năng động trong việc tiếp cận và tư vấn cho doanh nghiệp về cơ cấu nguồn vốn.
- Thứ tư, qui định về đối tượng cho thuê tài chính tại Việt Nam chỉ bó hẹp trong động sản, đối với dây chuyền sản xuất lại yêu cầu tỷ lệ tham gia vốn lớn.
- Thứ năm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam phần lớn còn yếu kém về năng lực sản xuất, trình độ quản lý, tính khả thi của dự án thiếu thuyết.CHƯƠNG 3: THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
3.1 Thực trạng Thuê tài chính ở Việt Nam:
Mặc dù cho thuê tài chính là cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên sau 13 năm có mặt, thị trường cho thuê tài chính Việt nam chỉ có 12 công ty được thành lập dưới các hình thức sở hữu khác nhau. Đặc biệt, sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp để tăng quy mô, trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh đã tạo ra một cơ hội rất lớn đối với lĩnh vực cho thuê tài chính.
Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp vẫn dựa vào kênh vay vốn ngân hàng và cho đây là địa chỉ cung ứng vốn tốt nhất. Các ngân hàng có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với cho thuê tài chính. Với ưu thế bề dày lâu năm, mạng lưới kinh doanh rộng khắp, sản phẩm, dịch vụ đa dạng, làm cho một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp có thói quen chỉ tìm đến ngân hàng khi có nhu cầu vốn. Các doanh nghiệp hầu như vẫn chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ của các công ty cho thuê tài chính. Trong khi các doanh nghiệp cho thuê tài chính lại có khả năng tách quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, cho vay không cần tài sản thế chấp, mà tài sản thế chấp quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp đi thuê tài chính là tín nhiệm của doanh nghiệp, uy tín của chủ doanh nghiệp, tính khả thi của dự án và phần vốn tham gia trả trước. Các quy trình thủ tục cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính nói chung rất đơn giản, tiện lợi. Ưu điểm rõ nhất của cho thuê tài chính là không cần tài sản thế chấp, điều đó giải tỏa áp lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, còn hạn chế năng lực tài chính hoặc các doanh nghiệp mới thành lập. Tuy nhiên, công tác tiếp thị khách hàng, quảng bá doanh nghiệp của các công ty cho thuê tài chính nói chung cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới để các doanh nghiệp khi có nhu cầu vốn sẽ nhanh chóng tìm ra địa chỉ các kênh tín dụng, trong đó họ sẽ hiểu rõ hơn lợi thế của cho thuê tài chính so với tín dụng truyền thống.
Theo số liệu của Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam cho thấy, hiện có 8 công ty cho thuê tài chính Việt Nam đã được thành lập, chủ yếu bởi các ngân hàng thương mại (trong đó có 4 ngân hàng quốc doanh là BIDV, Agribank, Vietcombank, Incombank). Ngoài ra, còn có 4 công ty cho thuê tài chính nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Tổng vốn điều lệ của 7 công ty cho thuê tài chính trong nước (trừ công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu mới thành lập và đi vào hoạt động) tính đến cuối năm 2007 là 1.550 tỷ đồng, tăng 47% so với năm 2006; tổng dư nợ cho thuê đạt 11.749 tỷ đồng, tăng 58%; tổng lợi nhuận trước thuế đạt 215,8 tỷ đồng, tăng 34,6%; tỷ lệ nợ quá hạn có xu hướng tăng cao hơn năm 2006, có công ty lên đến 10,97%.
Thị trường cho thuê tài chính nước ta là một kênh dẫn vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Nhưng thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì:
Thứ nhất, doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu.
Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích của cho thuê tài chính … Ngoài ra đặc điểm của các nước đang phát triển, tỷ trọng của thị trường cho thuê tài chính so với thị trường tín dụng vào khoảng 15 – 20% , thì ở thị trường Việt Nam tỉ lệ này chưa đạt tới 2%. Như vậy cứ 100 doanh nghiệp thì chưa đến 2 doanh nghiệp sử dụng những tiện ích của cho thuê tài chính.
Thứ hai, giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng.
Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra.
Thứ ba, hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn. Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và 5 triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính.
Mặc dù có mức tăng trưởng cao trong năm 2007 và dư địa hoạt động còn lớn nhưng bước vào năm 2008, thị trường cho thuê tài chính được dự báo sẽ gặp nhiều khó khăn vì các nguyên nhân sau:
- Biện pháp thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát của Ngân hàng Nhà nước nên lãi suất đi vay để đầu tư vào tài sản cố định cho thuê tài chính bị đẩy lên cao đến 17%.
- Các DN trong nước với khả năng tài chính còn yếu hiện nay khó có thể đẩy mạnh phát triển dịch vụ này.
- Việt Nam đã là thành viên WTO, cùng với cam kết mở cửa hoàn toàn lĩnh vực ngân hàng, trong đó có cho thuê tài chính, chắc chắn sẽ có nhiều tập đoàn, nhiều công ty cho thuê tài chính nước ngoài đến làm ăn ở Việt Nam. Khi đó, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng nói chung và cho thuê tài chính nói riêng sẽ rất gay gắt.
3.2 Giải pháp:
Định hướng và nguyên tắc cơ bản:
- Một là: Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính phải trên cơ sở đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và phát triển đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là thị trường vốn và thị trường chứng khoán.
- Hai là: Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính dựa trên cơ sở sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp theo hướng đa dạng hoá loại hình sở hữu, đa năng hoá nội dung hoạt động.
- Ba là: Hoàn thiện và phát triển cho thuê tài chính Việt Nam phải dựa trên một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. Tham khảo và vận dụng có chọn lọc các ưu thế và chuẩn mực của quốc tế về cho thuê tài chính.
Trên cơ sở những định hướng và nguyên tắc cơ bản, nhóm 6 xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính ở nước ta:
1. Tiếp tục hoàn thiện các điều kiện của một giao dịch cho thuê tài chính. Theo các văn bản hiện hành, một giao dịch cho thuê tài chính thoả mãn các điều kiện là: Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên. Để được quyền sở hữu tài sản thuê, bên thuê mua lại tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại. Thời hạn cho thuê một tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
2. Bên thuê và các đối tác trong cho thuê tài chính:
- Trong các văn bản hiện hành, "bên thuê" chỉ là các doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam. Sau khi tham khảo các tài liệu và việc nghiên cứu của các thành viên trong nhóm. Nhóm 6 kiến nghị: "Bên thuê" là mọi tổ chức, đơn vị và cá nhân chứng minh được khả năng thanh toán tiền thuê của mình.
- Các đối tác tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính không nên dừng lại ở các doanh nghiệp trong nước mà bổ sung thêm đối tác tham gia thành lập là các doanh nghiệp nước ngoài, việc các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính đã trở nên khá phổ biến ở nhiều nước. Do vậy, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong đối tác của các công ty cho thuê tài chính giúp cho các công ty cho thuê tài chính trong nước tiếp cận nhanh với nguồn máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, đối tác là các tổ chức tín dụng trong công ty cho thuê tài chính phải chiếm tỷ lệ vốn đủ lớn để chi phối hoạt động của công ty.
3. Vấn đề quản lý tài sản thuê. Để đảm bảo an toàn hoạt động cho các công ty cho thuê tài chính, theo kinh nghiệm của nhiều nước, cần phải đăng ký quyền sở hữu tài sản cho thuê, tránh trường hợp bên thuê sử dụng tài sản cho thuê vào mục đích cầm cố, thế chấp và bán...
4. Vấn đề xuất, nhập khẩu đối với tài sản cho thuê
Các công ty cho thuê tài chính muốn có tài sản cho thuê thường phải thông qua uỷ thác hoặc mua lại của các đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nên làm tăng chi phí và không chủ động cho thuê. Để tháo gỡ khó khăn này, đề nghị cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhập khẩu trực tiếp tài sản cho thuê như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu.
5. Các giải pháp khác
- Cần có chính sách miễn, giảm thuế để tạo điều kiện cho các công ty cho