Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, Kinh tế đối ngoại là hoạt động tất yếu khách quan đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho sự phát triển của các nước đang phát triển, có nền kinh tế mở cửa. Đối với Việt Nam hoạt động kinh tế đối ngoại hiện tại là kết quả của quá trình mở cửa hơn 20 năm, là động lực phát triển kinh tế trong thời kì hội nhập mới. Bởi hoạt động này làm rút ngắn khoảng cách hội nhập kinh tế của Việt Nam với những nội dung phát triển toàn diện của nó.
Lịch sử đã chứng minh nhiều nước trên thế giới và khu vực đã phát triển nền kinh tế thành công bằng con đường kinh tế đối ngoại với chính sách mở cửa - khoan dung hơn là đóng cửa cô lập và đố kị - nghi ngờ. Điển hình ở Đông Bắc Á; Nhật bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, một số nước ASEAN như Singapore, Thái Lan thông qua hoạt động hướng ngoại của mình đã nhanh chóng phát triển trở thành những “con rồng kinh tế”.
Từ kinh nghiệm của các nước, trước và khi tham gia hội nhập WTO, Việt Nam đang tổ chức, sắp xếp lại nền kinh tế và hướng nền kinh tế ra bên ngoài để tìm một “cú hích” mạnh về tài chính, hợp tác chuyển giao công nghệ - khoa học kĩ thuật, hướng xuất khẩu nhằm đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cho nên,Việt Nam xem mục tiêu kinh tế đối ngoại là mục tiêu chiến lược - động lực phát triển tất yếu.
Xuất phát từ những lý do trên chúng em xin được phân tích đề tài: “ Ngoại thương của Việt Nam hiện nay”.
73 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6491 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngoại thương của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời nói đầu 4
Chương I: Tổng quan về ngoại thương 6
Lý luận về thương mại quốc tế 6
Khái niệm về thương mại quốc tế 6
Nguồn gốc và vai trò của thương mại quốc tế 6
Tác động của hoạt động ngoại thương đến tăng trưởng kinh tế 8
. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế 9
Quan điểm của phái trọng thương về thương mại quốc tế 9
Lợi thế tuyệt đối (Adam Smith) 10
Lợi thế so sánh ( David Ricardo) 12
Nguồn lực sản xuất vốn có và lý thuyết Heckscher – Ohlin 14
CÔNG CỤ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG 17
Thuế 17
Hạn ngạch 18
Quản lý ngoại tệ 19
Tín dụng trợ cấp 20
CÁC CHIẾN LƯỢC TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG 22
Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô 22
Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu 23
Kinh nghiệm hướng ngoại của các nước 25
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 27
TỔNG QUAN VỀ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 27
Ngoại thương Việt Nam trước khi gia nhập WTO 28
Ngoại thương Việt Nam sau khi gia nhập WTO 35
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC 45
Xuất- Nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Mỹ 45
Xuất- Nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU 55
Xuất- Nhập khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Nhật Bản 60
Xuất- Nhập khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Trung Quốc và ASEAN 63
Chương III: ĐÁNH GIÁ VỀ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 67
ƯU ĐIỂM 67
NHƯỢC ĐIỂM 67
Chương IV: GIẢI PHÁP CHO NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 69
Kết luận 73
Danh mục tài liệu tham khảo 74
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, Kinh tế đối ngoại là hoạt động tất yếu khách quan đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho sự phát triển của các nước đang phát triển, có nền kinh tế mở cửa. Đối với Việt Nam hoạt động kinh tế đối ngoại hiện tại là kết quả của quá trình mở cửa hơn 20 năm, là động lực phát triển kinh tế trong thời kì hội nhập mới. Bởi hoạt động này làm rút ngắn khoảng cách hội nhập kinh tế của Việt Nam với những nội dung phát triển toàn diện của nó.
Lịch sử đã chứng minh nhiều nước trên thế giới và khu vực đã phát triển nền kinh tế thành công bằng con đường kinh tế đối ngoại với chính sách mở cửa - khoan dung hơn là đóng cửa cô lập và đố kị - nghi ngờ. Điển hình ở Đông Bắc Á; Nhật bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, một số nước ASEAN như Singapore, Thái Lan… thông qua hoạt động hướng ngoại của mình đã nhanh chóng phát triển trở thành những “con rồng kinh tế”.
Từ kinh nghiệm của các nước, trước và khi tham gia hội nhập WTO, Việt Nam đang tổ chức, sắp xếp lại nền kinh tế và hướng nền kinh tế ra bên ngoài để tìm một “cú hích” mạnh về tài chính, hợp tác chuyển giao công nghệ - khoa học kĩ thuật, hướng xuất khẩu nhằm đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cho nên,Việt Nam xem mục tiêu kinh tế đối ngoại là mục tiêu chiến lược - động lực phát triển tất yếu.
Xuất phát từ những lý do trên chúng em xin được phân tích đề tài: “ Ngoại thương của Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề về thương mại quốc tế
- Tìm hiểu sự tác động của ngoại thương đến phát triển kinh tế
- Phân tích đánh giá thực trạng của ngoại thương Việt Nam hiện nay
- Đề xuất các giải pháp cho ngoại thương Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ngoại thương Việt Nam hiện nay
- Phạm vi nghiên cứu là các chính sách của nhà nước liên quan đến thương mại quốc tế
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài làm đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích thống kê, phân tích tổng hợp, tham khảo tài liệu.
5. Kết cấu bài làm
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo kết cấu bài làm gồm có 3 chương như sau:
Chương I: Tổng quan về ngoại thương
Chương II: Thực trạng về hoạt động ngoại thương Việt Nam
Chương III: Đánh giá về ngoại thương Việt Nam
Chương IV: Giải pháp đưa ra cho ngoại thương Việt Nam
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGOẠI THƯƠNG
I. LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.Khái niệm về thương mại quốc tế:
Thương mại quốc tế là quá trình phân phối và lưu thông hàng hoá, dịch vụ giữa các nước với nhau thông quan quan hệ hàng hoá tiền tệ. Quan hệ tiền tệ dưới hình thức buôn bán nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách hàng, của người tiêu dùng. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng.
2. Nguồn gốc và vai trò của thương mại quốc tế:
Thương mại quốc tế có từ xa xưa, có từ khi có sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế. Trước hết, thương mại xuất hiện từ sự đa dạng và điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá sản xuất một mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn sẽ đem lại lợi nhuận lớn hơn.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự hình thành thương mại quốc tế giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch. Song, phần lớn số lượng thương mại thuộc các mặt hàng không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất.
Mỹ sản xuất được ô tô tại sao lại nhập ô tô từ Nhật Bản. Làm sao nước ta với xuất phát điểm thấp và chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hang của các cường quốc kinh tế lại có thể vẫn duy trì thương mại với các nước đó. Lý thuyết về thương mại quốc tế của các nhà kinh tế học sẽ giải quyết vấn đề này.
Thương mại quốc tế là cầu nối trung gian giữa sản xuất và tiêu dung giữa nước ta với nước ngoài và ngược lại. Chính vì vậy mà nó có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước:
Thương mại quốc tế tác động vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng phát triển theo hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất và tiêu dùng theo hướng phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế.
Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do cơ bản là mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước hay nói cách khác là nó làm thay đổi phương thức sản xuất và phương thức tiêu dùng. Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mạt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung, tự cấp, không buôn bán.
Thương mại quốc tế còn làm cho thu nhập GDP tăng lên, cải thiện đời sống của nhân dân.
Thương mại quốc tế giúp cho các nước thoả mãn nhu cầu về văn hoá, nâng cao trình độ văn hoá, quan hệ với nhiều nước trên thế giới, năng cao uy tín trên thị trường quốc tế.
Thương mại quốc tế phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chuyển sang nước công nghiệp, sản xuất bằng máy là chính.
3. Tác động của hoạt động ngoại thương đến tăng trưởng kinh tế
Phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là một đơn vị độc lập tự chủ nhưng phụ thuộc vào nhau về khoa học công nghệ.
Lịch sử thế giới chứng minh rằng không có quốc gia nào có thể phát triển nếu thực hiện chính sách tự cấp tự túc. Ngược lại, những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều là những nước dựa vào kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển.
Đối với nước ta là một nước nghèo và kém phát triển, nông nghiệp lạc hậu, trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn thấp, nhưng có nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Để đảm bảo đường lối xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa , phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế khoa học công nghệ với bên ngoài là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp bách.
Hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước bao gồm ba nội dung cơ bản sau:
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
Hợp tác về vốn
Các giao dịch về lợi tức sở hữu và chuyển nhượng
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí quan trọng, nó tạo điều kiện phát huy được lợi thế của từng nước trên thị trường quốc tế. kết quả hoạt động ngoại thương của một nước được đánh giá qua cân đối thu chi ngoại tệ dưới hình thức “cán cân thanh toán xuất nhập khẩu”, kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước, do đó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Khi cán cân thanh toán có mức xuất siêu sẽ làm cho mức chi tiêu giảm, từ đó tác động đến GDP.
Dựa vào quan điểm của ngoại thương các nước có nhiều cách khác nhau trong việc lựa chọn đường lối phát triển.
4. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế
4.1 Quan điểm của phái trọng thương về thương mại quốc tế
Nội dung của các quan điểm:
Coi trọng xuất nhập khẩu, phái này cho rằng đó là con đường mang lại sự phồn vinh cho đất nước. Tuy nhiên phương châm ở đây phải là xuất siêu. Chủ trương “ Một cán cân thương mại thặng dư” của phái trọng thương đã dẫn đến:
Chỉ chú ý đến xuất khẩu, tìm mọi cách để tăng được xuất khẩu cả số lượng và giá trị. Còn nhập khẩu thì rất hạn chế, đặc biệt là các sản phẩm đã hoàn chế và hàng hóa xa xỉ phẩm.
Thực hiện độc quyền mậu dịch- tức là loại ngoại quốc ra khỏi một số vùng mậu dịch nào đó
Tiến hành bảo hộ mậu dịch: để bảo hộ mậu dịch trong nước người ta không đánh thuế đối với nhập khẩu nguyên liệu hay có thêm một khoản trợ cấp. Cấm xuất khẩu nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm.
Vàng bạc (quý kim) được coi trọng quá mức. Các nhà trọng thương đo lợi ích của dân tộc bằng kho dự trữ kim loại quý mà họ sở hữu.
Sở dĩ vàng bạc thời ấy được quá coi trọng là vì:
Hiểu sai về khái niệm tài sản quốc gia
Vàng bạc là quý kim bền nên có thể làm phương tiện tích trữ hay bảo tồn giá trị được.
Cấm xuất vàng thoi bạc nén (nếu ai vi phạm sẽ bị tử hình), cấm người ngoại quốc mua quý kim.
Nhận xét:
Biết đánh giá được vai trò của thương mại quốc tế, coi đó là nguồn quan trọng đem lại quý kim cho đất nước.
Có sự can thiệp sâu của chính phủ vào các hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương.
Coi việc buôn bán với nước ngoài không phải xuất phát từ lợi ích chung của cả hai phía mà chỉ có thu vén cho lợi ích quốc gia của mình.
4.2 Lợi thế tuyệt đối (Adam Smith)
Theo lý thuyết này: ‘các nước tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế sẽ thu được lợi ích khi họ chuyên môn hoá vào sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá có chi phí thấp hơn có nghĩa là có chi phí tuyệt đối so với việc sản xuất ở quốc gia khác và nhập khẩu hàng hoá có tình trạng ngược lại’.
Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế khi mỗi quốc gia tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản xuất thấp hơn hẳn so với các quốc gia khác và thấp hơn mức chi phí trung bình của quốc tế thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi.
Giả định
Thế giới có hai quốc gia và mỗi quốc gia sản xuất hai mặt hàng.
Đồng nhất chi phí sản xuất với tiền lương cá nhân.
Giá cả hoàn toàn do chi phí sản xuất quyết định.
Kết luận
Quá trình trao đổi trên cơ sở lợi thế tuyệt đối làm khối lượng tổng sản phẩm toàn xã hội tăng lên, làm cho các nguồn lực trong nước được sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
Thương mại quốc tế sẽ tạo điều kiện để phát triển những ngành có lợi thế và thu hẹp những ngành bất lợi thế, là cơ sở lý luận sau này cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế giữa các quốc gia.
Ưu điểm
Khắc phục hạn chế của lý thuyết trọng thương đó là khẳng định cơ sở tạo ra giá trị là sản xuất chứ không phải là lưu thông. - Chứng minh thương mại đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Nhược điểm
Không giải thích được hiện tượng chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế và TMQT sẽ xảy ra như thế nào đối với những nước không có lợi thế tuyệt đối nào.
Coi lao động là yếu tố sản xuất duy nhất tạo ra giá trị,là đồng nhất và được sử dụng với tỉ lệ như nhau trong tất cả các loại hàng hoá.
Quan điểm
Đề cao vai trò của các cá nhân và doanh nghiệp ,ủng hộ một nền thương mại tự do,không có sự can thiệp của chính phủ.
Thấy được tính ưu việt của chuyên môn hóa
Dùng lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần rất nhỏ trong mậu dịch thế giới hiện nay
Minh họa
Sản phẩm
Hoa Kỳ
Anh
Lúa mì (giạ/người/giờ)
6
1
Vải (m/người/giờ)
4
5
Hoa Kỳ có lợi thế tuyệt đối so với Anh về sản xuất lúa mì.
Anh có lợi thế tuyệt đối so với Hoa Kỳ về sản xuất vải.
Như vậy Mỹ sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa mỳ còn Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải và sau đó đem trao đổi cho nhau: Mỹ xuất lúa mỳ nhập vải, còn Anh xuất vải nhập lúa mỳ.
Nếu Mỹ đổi 6 giạ lúa mỳ (6W) với Anh để lấy 6m vải (6C) thì Mỹ sẽ có lợi 2C hay tiết kiệm được 1/2 giờ ( vì trong nội địa Mỹ chỉ có thể đổi 6W lấy 4C mà thôi). Tương tự như vậy, nếu Anh nhận được từ Mỹ 6W, tức là Anh đã không phải tiêu phí một lượng thời gian là 6 giờ để sản xuất trong nước. Với thời gian đó, Anh chỉ tập trung cho sản xuất vải thì sẽ được 30C (6 giờ x 5m vải). Trong đó 6C dùng để trao đổi với Mỹ, còn 24C là lợi ích thuộc về Anh. Hay có thể nói là Anh đã tiết kiệm được 5 giờ.
4.3 Lợi thế so sánh ( David Ricardo)
Phát biểu quy luật về lợi thế tương đối của Ricardo: “Các nước không có lợi thế song song về bất kỳ hàng hoá nào vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế và thu được lợi ích khi các nước này chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất nó là ít bất lợi nhất hoặc có lợi thế tương đối - biểu hiện dưới hình thức chi phí so sánh thấp nhất - và nhập khẩu hàng hoá có tình trạng ngược lại”.
Lợi thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại, mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác). Nguyên tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi hàng hóa. Nguyên tắc lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc tế. Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình."
Giả định:
Thế giới chỉ có 2 quốc gia và chỉ sản xuất 2 loại sản phẩm
Mậu dịch tự do
Lao động có thể chuyển dịch tự do chỉ trong một quốc gia nhưng không có khả năng chuyển dịch giữa các quốc gia
Chi phí sản xuất cố định
Không có chi phí vận chuyển
Chi phí sản xuất được đồng nhất với đồng lương
Theo quy luật này, ngay cả một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả hai sản phẩm vẫn có lợi khi giao thương với một quốc gia khác được coi là có lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả hai sản phẩm.
Mỹ
Anh
Lúa mỳ (giạ/giờ)
6
1
Vải(m/giờ)
4
2
Trong trường hợp này, Anh không có lợi thế tuyệt đối so với Mỹ để sản xuất cả hai sản phẩm,
Tuy nhiên nếu so sánh giữa lúa mỳ và vải thì Anh có lợi thế so sánh về vải, vì năng suất lao động sản xuất vải của Anh chỉ bằng nửa năng suất sản xuất vải của Mỹ, trong khi đó năng suất sản xuất lúa mỳ của Anh lại nhỏ hơn những 6 lần so vơi Mỹ.
Ngược lại, chi phí sản xuất cả hai sản phẩm ở Mỹ đều thấp hơn so với ở Anh, nhưng như thế không có nghĩa là Mỹ sẽ sản xuất cả hai mặt hàng mà chỉ sản xuất sản phẩm nào có lợi thế so sánh. Trong trường hợp này Mỹ có lợi thế so sánh về lúa mỳ.
Theo quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo thì cả hai quốc gia đều có lợi nếu hai quốc gia tự nguyện thực hiện trao đổi thương mại: Mỹ chuyên môn hóa sản xuất lúa mỳ và xuất khẩu một phần để đổi lấy vải của Anh và Anh thì làm ngược lại. Khi đó cả hai quốc gia đều có lợi.
4.4 Nguồn lực sản xuất vốn có và lý thuyết Heckscher – Ohlin
Khái niệm hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố:
Lý thuyết Heckscher - Ohlin được xây dựng trên hai khái niệm cơ bản là hàm lượng hay độ sử dụng (các yếu và mức độ dồi dào của các yếu tố). Một mặt hàng được coi là sử dụng nhiều ( một cách tương đối ) lao động nếu tỷ lệ giữa lượng lao động và yếu tố khác như vốn, đất đai sử dụng để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng các yếu tố đó để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng thứ hai. Tương tự, nếu tỷ lệ giữa vốn và các yếu tố khác là lớn hơn thì mặt hàng được coi là có hàm lượng vốn cao. Chẳng hạn, mặt hàng X được coi là có hàm lượng lao động cao nếu:
Lx/Kx lớn hơn Ly/Ky (trong đó Lx và Ly là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y, còn Kx và Ky lượng vốn cần thiết để sản xuất ra mộtđơn vị X và Y, một cách tương ứng).
Lưu ý rằng, định nghĩa về hàm lượng vốn ( hay hàm lượng lao động ) không căn cứ vào tỷ lệ giữa vốn (hay lao động) mà được phát biểu dựa trên tương quan giữa lượng vốn và lượng lao động cần thiết để sản xuất một đơn vị sản lượng.
Một quốc gia được coi là dồi dào tương đối về lao động (hay vốn) nếu tỷ lệ giữa lượng lao động (hay lượng vốn) và các yếu tố sản xuất khác của quốc gia đó lơn hơn tỷ lệ tương ứng của các quốc gia khác. Cũng tương tự như trường hợp hàm lượng các yếu tố, mức độ dồi dào của một yếu tố sản xuất của một quốc gia được đo không phải bằng số lượng tuyệt đối này bằng tương quan giữa số lượng yếu tố đó với các yếu tố sản xuất của quốc gia.
Định lý Heckscher - Ohlin:
Xuất phát từ các khái niệm cơ bản trên thì nội dung của định lý Heckscher - Ohlin có thể được tóm tắt như sau: ‘ Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia’.
Lý thuyết Heckscher - Ohlin được xây dựng dựa trên một loạt các giả thiết đơn giản sau đây:
Thế giới chỉ có hai quốc gia chỉ có 2 loại hàng hóa X, Y và chỉ có 2 yếu tố là lao động và tư bản.
Hai quốc gia sử dụng công nghệ sản xuất hàng hóa giống nhau và thị hiếu của các dân tộc là như nhau.
Hàng hóa X chứa nhiều lao động, còn hàng hóa Y chứa đựng nhiều tư bản.
Tỷ lệ giữa đầu tư và sản lượng của 2 loại hàng hóa trong 2 quốc gia là một hằng số. Cả 2 quốc gia đều chuyên môn hóa sản xuất ở mức không hoàn toàn.
Cạnh tranh hoàn hảo trong thị trường hàng hóa và thị trường các yếu tố đầu vào ở cả hai quốc gia.
Các yếu tố đầu vào tự do di chuyển trong từng quốc gia nhưng bị cản trở trong phạm vi quốc tế.
Không có chi phí vận tải, không có hàng rào thuế quan và các trở ngại khác trong thương mại giữa hai nước.
Một số khái niệm quan trọng:
Yếu tố thâm dụng:
Trong phạm vi của hai sản phẩm và hai yếu tố sản xuất, chúng ta nói rằng sản phẩm Y là sản phẩm thâm dụng tư bản nếu tỷ số K/L sử dụng trong sản xuất sản phẩm Y là lớn hơn K/L sử dụng trong sản xuất sản phẩm X.
Yếu tố dư thừa:
Khái niệm này chỉ ra sự dồi dào của một quốc gia về một yếu tố sản xuất nào đó, có thể là lao động hay tư bản.
Nội dung lý thuyết:
Lý thuyêt xem xét và dự đoán mô hình mậu dịch
Một quốc gia sẽ xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó dư thừa tương đối và xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia kham hiếm tương đối
Lý thuyết cân bằng giá cả yếu tố
Mậu dịch quốc tế sẽ dẫn đến sự cân bằng tương đối và và tuyệt đối lợi suất của các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia.
II. CÔNG CỤ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG
1.Thuế:
Thuế quan là khoản thuế đánh vào hàng hoá và dịch vụ khi có sự dịch chuyển vượt qua biên giới quốc gia. Thuế quan có thể được áp dụng đối với cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Thuế quan nhập khẩu là thuế đánh vào các hàng hoá nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu đánh vào các mặt hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên trên thế giới thuế quan chủ yếu được áp dụng đối với nhập khẩu ch