Khi xã hội ngày càng phát triển thì những tranh chấp liên quan đến di sản thừa kế cũng phát sinh ngày càng nhiều, thậm chí nhiều người đã vì di sản thừa kế mà có những hành vi vi pháp luật, trái với đạo lý con người. những vụ án như con giết cha để được hưởng di sản thừa kế hay con bất hiếu, trốn tránh trách nhiệm, không phụng dưỡng cha mẹ lúc già yếu nhưng vẫn đòi chia di sản ngày nay không còn là hiếm. Những hành vi đó liệu có còn xứng đáng để được hưởng di sản và pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể như thế nào đối với những trường hợp này, tôi xin làm rõ vấn đề này trong bài tiểu luận: “Người thừa kế theo pháp luật không có quyền hưởng di sản”.
20 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2758 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Người thừa kế theo pháp luật không có quyền hưởng di sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỐ CỤC
A. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ:
- Nêu vấn đề
- Nêu tầm quan trọng của việc nghiên cứu vấn đề
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Các khái niệm cơ bản về thừa kế:
1. Khái niệm thừa kế:
2. Khái niệm “Người để lại di sản thừa kế”:
3. Khái niệm “Người thừa kế”:
4. Di sản thừa kế:
II. Những quy định về người thừa kế không được hưởng di sản:
1. Quy định về người thừa kế không được hưởng di sản trong pháp luật Việt Nam trước đây:
a, Trước năm 1945:
b, Sau Cách mạng tháng Tám 1945:
c, Trong giai đoạn tiếp theo kể từ năm 1959 đến năm 1981:
2. Quy định của BLDS Việt Nam hiện nay về người thừa kế không được hưởng di sản:
III. Liên hệ với thực tiễn:
1. Vụ án tranh chấp quyền thừa kế quyền sử dụng đất và nhà ở tại Trần Cao Vân – TP Đà Nẵng:
2. Vụ án về nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản:
IV. Nhận xét của bản thân về quy định của pháp luật hiện hành về người thừa kế không được hưởng di sản:
C. KẾT LUẬN VẤN ĐỀ:
BÀI LÀM
A. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ:
Khi xã hội ngày càng phát triển thì những tranh chấp liên quan đến di sản thừa kế cũng phát sinh ngày càng nhiều, thậm chí nhiều người đã vì di sản thừa kế mà có những hành vi vi pháp luật, trái với đạo lý con người. những vụ án như con giết cha để được hưởng di sản thừa kế hay con bất hiếu, trốn tránh trách nhiệm, không phụng dưỡng cha mẹ lúc già yếu nhưng vẫn đòi chia di sản… ngày nay không còn là hiếm. Những hành vi đó liệu có còn xứng đáng để được hưởng di sản và pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể như thế nào đối với những trường hợp này, tôi xin làm rõ vấn đề này trong bài tiểu luận: “Người thừa kế theo pháp luật không có quyền hưởng di sản”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Các khái niệm cơ bản về thừa kế:
1. Khái niệm thừa kế:
Thừa kế di sản theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế. Người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Thừa kế là một quan hệ xã hội có mầm mống và xuất hiện từ thời sơ khai của xã hội loài người. Cũng chính từ thời kỳ đó, sở hữu và thừa kế đã xuất hiện như một tất yếu khách quan và mang tính chất là một phạm trù kinh tế, có mối quan hệ ràng buộc, qua lại với nhau.
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và phát triển cùng sự phát triển loài người. Mặt khác, quan hệ sở hữu có bản chất là sự chiếm hữu vất chất giữa người với người, giữa tập đoàn người này và tập đoàn người khác trong xã hội. Đó là tiền đề đầu tiên để làm xuất hiện quan hệ thừa kế.
Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác. Với những người có quyền nhận di sản, họ có thể nhận hoặc không nhận di sản (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác).
2. Khái niệm “Người để lại di sản thừa kế”:
Người để lại di sản thừa kế là người có tài sản sau khi chết để lại cho người còn sống theo ý chí của họ và được thể hiện trong di chúc hay theo quy định cảu pháp luật. Người để lại di chúc chỉ có thể là các nhân, không phân biệt bất cứ điều kiện nào (thành phần xã hội, mức độ năng lực hành vi…). Còn với pháp nhân và tổ chức, nếu tham gia vào quan hệ thừa kế thì chỉ là với tư cách người được hưởng di sản theo di chúc.
3. Khái niệm “Người thừa kế”:
Người thừa kế là người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải là người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản. người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức hoặc Nhà nước. Những người thừa kế có quyền và có nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
Người thừa kế là cá nhân thì phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế; người đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế và sinh ra mà còn sống cũng là người thừa kế. Người thừa kế là pháp nhân, tổ chức thì phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005.
4. Di sản thừa kế:
Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại cho những người còn sống.
Theo quy định tại Điều 634 BLDS năm 2005: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. So với Điều 637 BLDS năm 1995, quy định này đã lược bỏ phần: “quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế”. Việc lược bỏ này là rất hợp lý vì ở tại Điều 163 BLDS năm 2005 có quy định tài sản bao gồm cả “quyền tài sản” và trong quyền tài sản đã có cả quyền sử dụng đất.
Như vậy, di sản thừa kế chỉ bao gồm các thành phần tài sản xác định được từ khối tài sản riêng, phần tài sản chung của người đã chết trong khối tài sản chung với người khác, không bị hạn chế về phạm vi giá trị:
Tài sản riêng của người chết được xác định khi người đó còn sống, có quyền sở hữu tài sản của mình một cách độc lập và tự mình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo ý chí của riêng mình mà không bị ràng buộc vào ý chí của người khác và chỉ tuân theo pháp luật. Tài sản riêng của người chết là tài sản người đó tạo ra từ thu nhập hợp pháp (như tiền lương, tiền thưởng, tiền trúng xổ số…) trong trường hợp người đó chưa kết hôn, tài sản được tặng cho, thừa kế, tư liệu sinh hoạt riêng (như quần áo, xe may, ô tô…), nhà ở, tư liệu sản xuất các loại, vốn được dùng để sản xuất kinh doanh…, các quyền tài sản do người chết để lại (như quyền đòi nợ, quyền sở hữu, quyền sử dụng đất…).
Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác (phần vốn đóng góp trong việc tạo dựng tài sản sở hữu chung theo phần, phần họ được tặng cho, được thừa kế chung với người khác). Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất không phân chia thì phần tài sản của người chết tương đương với phần tài sản của người khác. Trường hợp nhiều người cùng góp góp vốn để sản xuất kinh doanh (đồng chủ sở hữu với một khối tài sản nhất định) thì nếu một đồng sở hữu chết, thì di sản thừa kế của người chết là phần tài sản thuộc sở hữu của người đó đóng góp trong khối tài sản chung. Trường hợp tài sản chung của vợ chồng khi có một người chết trước thì chia đôi, phần tài sản của người chết chia theo quy định pháp luật về thừa kế (Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình).
II. Những quy định về người thừa kế không được hưởng di sản:
1. Quy định về người thừa kế không được hưởng di sản trong pháp luật Việt Nam trước đây:
a, Trước năm 1945:
Trong pháp luật nước ta (lúc này là pháp luật của chế độ thực dân – phong kiến) cũng có những quy định về người thừa kế không có quyền hưởng di sản của người quá cố (họ được gọi là người thừa kế bất đối xứng).
Chẳng hạn, Điều 313 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 306 Dân luật Trung Kỳ đều dự liệu những trường hợp người thừa kế không có quyền hưởng di sản:
- Người đã bị người lập di chúc tuyên bố không xứng đáng được hưởng di sản của người lập di chúc.
- Người có hành vi xâm phạm đến tính mạng người để lại di sản hoặc với danh nghĩa chính phạm hoặc đồng phạm hoặc tòng phạm.
- Người đã trưởng thành biết được hành vi cố ý giết người mà không tố giác với Tòa án, nhưng nếu kẻ sát nhân là cha, mẹ, anh, em, vợ, chồng hoặc thân thuộc gần với người thừa kế thì không bị coi là có lỗi vì đã không tố giác.
- Người có hành vi vu khống người để lại di sản hoặc vu khống ông, bà, cha, mẹ của người đó và người bị vu khống đã bị phạt trọng tội hay thường tội.
Cùng về vấn đề trên, theo án lệ ở miền Nam nước ta năm 1945 thì căn cứ vào từng vụ việc cụ thể mà quyết định tước quyền thừa kế của người vợ góa nếu:
Không để tang chồng
Sống thiếu đạo đức và đã công khai gây tai tiếng cho gia đình nhà chồng.
Đã có tình nhân hoặc đã lạm dụng quyền được hưởng di sản mà không có biên bản kê khai.
Người vợ góa bị coi là bất đối xứng không có quyền thừa kế, phần di sản đó sẽ do con hoặc cháu người đó hưởng.
b, Sau Cách mạng tháng Tám 1945:
Hệ thống pháp luật thuộc địa được thay thế bằng hệ thống pháp luật XHCN nhưng các dấu vết của luật cũ vẫn được bảo tồn. Theo Sắc lệnh ngày 10/10/1045 về tạm giữ các luật lệ hiện hành ở Việt Nam để thi hành cho đến khi ban hành những bộ luật của chế độ mới của toàn cõi Việt Nam. Theo sắc lệnh này, ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 (là năm Tòa án nhân dân tối cao ban hành Chỉ thị số 772 – CT/TANDTC về việc đình chỉ áp dụng luật lệ của chế độ cũ) vẫn áp dụng những quy định của pháp luật thời thực dân, phong kiến qui định về thừa kế và chỉ loại bỏ những quy định trái với những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp năm 1946.
c, Trong giai đoạn tiếp theo kể từ năm 1959 đến năm 1981:
Trên thực tế ở nước ta mặc dù đã có một số Thông tư của ngành Tòa án hướng dẫn giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế (chẳng hạn: Thông tư 594…) nhưng không có một nội dung nào về những người thừa kế không có quyền hưởng di sản. Thực trạng đó như một “lỗ hổng” của pháp luật thừa kế nước ta. Trên thực tế, các Tòa án đã không thể giải quyết thỏa đáng những tranh chấp về thừa kế liên quan đến người thừa kế có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, xâm phạm đến người để lại di sản hoặc người thừa kế khác do còn thiếu những quy định của pháp luật điều chỉnh vấn đề này.
- Cơ sở pháp lý để tước quyền thừa kế của một người chỉ bắt đầu được quy định tại thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết những tranh chấp về quyền thừa kế. Theo thông tư này, thì một người bị tước quyền thừa kế do đã bị kết án về một trong những hành vi sau đây:
+ Đã giết người để lại thừa kế hoặc đã đối xử quá quá tàn tệ với người đó.
+ Đã giết người thừa kế cung hành với mình để chiếm đoạt toàn bộ di sản hoặc nhằm làm tăng tỉ số phần trăm cho bản thân mình, thì không được thừa kế di sản của người đó.
Những hướng dẫn trên Thông tư số 81 mới chỉ dừng lại ở một số hành vi cụ thể mà chưa dự liệu được hết các trường hợp như: người thừa kế vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, hành hạ, ngược đãi người để lại di sản, hủy di chúc, giả mạo di chúc… Điểm hạn chế này đã được khắc phục ở Pháp lệnh thừa kế và hiện nay là Bộ luật dân sự.
* Pháp lệnh thừa kế (ban hành ngày 30/8/1990): Vấn đề người thừa kế không có quyền hưởng di sản được quy định tại Điều 7. Theo đó người thừa kế không có quyền hưởng di sản khi có một trong các hành vi sau:
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản.
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
Người bị kết án về hành vi cố ý giết người thừa kế khác nhằm mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng.
Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng nột phần hoặc toàn bộ tài sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Sau này, khi Bộ luật dân sự ra đời thì nội dung của Điều 7 Pháp lệnh thừa kế nói trên được giữ nguyên.
2. Quy định của BLDS Việt Nam hiện nay về người thừa kế không được hưởng di sản:
Hai Bộ luật dân sự năm 1995 và 2005 đều quy định giống nhau về những trường hợp người thừa kế không được hưởng di sản (Điều 646 BLDS 1995 và Điều 643 BLDS 2005). Bởi vậy, trong việc phân tích về quy định này, em xin chỉ đề cập đến BLDS 2005.
Trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005, những người không được quyền hưởng di sản được quy định tại Khoản 1 Điều 643.
* Điểm a Khoản 1 Điều 643 quy định: “Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó”.
- Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe người để lại di sản được hiểu là hành vi gây hại đến sức khỏe, thậm chí có khả năng gây ra cái chết cho người để lại di sản, chấm dứt sự sống của người đó. Những hành vi này phải là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật (để phân biệt với những hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong trường hợp phòng vệ chính đáng hay trong trường hợp thi hành án tử hình) thì người thừa kế mới bị tước quyền hưởng di sản.
Ta cũng cần phân biệt giữa lỗi cố ý và lỗi vô ý. Trong trường hợp, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, nhằm mục đích tước đoạt sự sống hoặc một phần sức khỏe của người để lại di sản thừa kế. Người có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe người để lại di sản và đã bị kết án về hành vi cố ý đó thì không có quyền thừa kế của người để lại di sản. Động cơ của người phạm tội và việc thực hiện tội phạm đã hoàn thành hay chưa hoàn thành không ảnh hưởng đến nội dung của quy định trên.
Nếu một người chỉ bị kết án về hành vi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe người để lại di sản thì không bị tước quyền hưởng di sản. Hành vi vô ý được xác định như sau:
Về mặt khách quan: Người phạm tội có hành vi vi phạm quy tắc an toàn (những quy tắc nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho con người) và hành vi vi phạm đó đã gây ra hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
Về mặt chủ quan: Người phạm tội có lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả. Đối với vô ý vì quá tự tin, người phạm tội nhận thức hành vi vi phạm của mình là nguy hiểm có thể gây hậu quả chết người nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, nhưng trên thực tế hậu quả đó vẫn xảy ra. Còn với hành vi vô ý làm chết người để lại di sản vì cẩu thả thì nhười gây hại không thấy trước được hậu quả chết người mà hành vi của mình gây ra, mặc dù phải thấy trước và có đủ điều kiện để thấy trước.
- Người thừa kế bị kết án về tội ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ, đối xử tàn ác với người để lại di sản thừa kế thì cũng không được quyền hưởng di sản của người để lại thừa kế.
- Ngoài ra, người thừa kế có thể bị kết án về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người để lại di sản thừa kế. Các tội này được quy định trong BLHS (sửa đồi, bổ sung năm 2009) tại các điều: Điều 111 – Tội hiếp dâm, Điều 113 – Tội cưỡng dâm, Điều 115 – Tội giao cấu với trẻ em, Điều 119 – Tội mua bán người, Điều 121 – Tội làm nhục người khác, Điều 122 – Tội vu khống… Người phạm một trong những tội trên biết hành vi xâm hại nhân phẩm, danh dự của người để lại thừa kế nhưng vẫn thực hiện hành vi nhằm đạt dược mục đích của mình. Người phạm tội bị kết án về một trong nhóm tội trên không phụ thuộc vào hình phạt là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù và cũng không phụ thuộc vào hình phạt là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù và cũng không phụ thuộc vào việc phải chấp hành hình phạt, điều quan trọng là có bản án về một trong những tội trên thì sau khi bị kết án có thể người bị kết án đã chấp hành phạt xong hoặc đã được xóa án, vẫn không được hưởng thừa kế của người bị hại.
* Điểm b Khoản 1 Điều 643 quy định: “Người phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”.
Theo quy định tại Điều 34, 35, 36, 38, 47, 48 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau bao gồm: bố mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng các con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và túng thiếu, họ không có khả năng kinh tế để nuôi sống bản thân (các con gồm: con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng). Ông bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng các cháu khi cháu không còn cha mẹ; các cháu cũng có nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với ông bà nếu ông bà không có ai nương tựa. Ngoài ra, anh chị em ruột có nghĩa vụ đùm bọc nhau. Ý nghĩa của từ “đùm bọc” ở đây rất rộng, nó không những có ý nghĩa về mặt đạo đức, pháp lý mà còn có ý nghĩa về mặt kinh tế. Họ có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng nhau nếu trong trong đình có người chưa thành niên hoặc người tàn tật mất khả năng lao động không có người nương tựa… Hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng phải nghiêm trọng và gây hậu quả xấu đối với người thừa kế (người thừa kế lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, khổ sở về tinh thần và ảnh hưởng đến sức khỏe của họ…). Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản không những phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự mà còn bị tước quyền thừa kế do hành vi cố ý vi phạm nghĩa vụ đó theo quy định của pháp luật.
* Điểm c Khoản 1 Điều 643 quy định: “Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng”.
Trường hợp này, người thừa kế không được hưởng di sản khi bị kết án về tội cố ý giết người thừa kế khác cùng hàng để chiếm đoạt phần di sản lẽ ra người này được hưởng
-Tuy nhiên, cần phải phân biệt người có hành vi vô ý làm chết người với hành vi cố ý giết người thừa kế khác.
+Theo quy định trên, thì một người bị kết án về hành vi cố ý giết người thừa kế khác với mục đích chiếm đoạt phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng, thì bị tước quyền thừa kế. Nhưng một người chỉ bị kết án về hành vi cố ý giết người thừa kế khác mà không nhằm mục đích chiếm đoạt phần di sản của người thừa kế đó được hưởng thì không bị tước quyền thừa kế. Ví dụ, có những trường hợp anh, chị, em ruột giết nhau nhưng không phải là để chiếm đoạt tài sản mà do nhiều nguyên nhân khác nhau như: do tài sản chia không công bằng hoặc tranh nhau vị trí của di sản ở mặt đường, trong ngõ, chỗ giá trị, chỗ ít giá trị… Họ không tự giải quyết được mâu thuẫn trên dẫn đến xô xát rồi đến phạm tội. Động cơ giết người của họ không phải để chiếm đoạt tài sản người khác. Do vậy, mặc dù bị kết án về tội giết người nhưng họ vẫn được hưởng di sản thừa kế.
+Một người chỉ bị kết án về hành vi vô ý làm chết người thừa kế khác, thì không bị tước quyền hưởng di sản của người để lại di sản; đồng thời còn được thừa kế của người bị vô ý làm chết đó (nếu người có hành vi vô ý làm chết người thừa kế khác là người thuộc hành thừa kế được hưởng di sản của người để lại di sản).
-Một vấn đề khác được đặt ra là: Người thừa kế khác ở đây là người thừa kế theo di chúc hay là người được pháp luật dự liệu theo các hàng thừa kế? hay là tùy trường hợp?
Cơ sở xác định người thừa kế theo nguyên tắc của pháp luật thừa kế là người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế và cho tới thời điểm mở thừa kế phải thỏa mãn một trong ba mối quan hệ (huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng với người để lại di sản) là căn cứ xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Người có hành vi cố ý giết người thừa kế khác nhằm mục đích chiếm đoạt phần di sản mà người đó có quyền hưởng phải là người thừa kế cùng hàng. Do vậy, người có hành vi cố ý giết người thừa kế khác chỉ có thể là người thừa kế cùng hàng được hưởng di sản với người thừa kế bị giết. Người thừa kế bị giết trong trường hợp này không phải là người thừa kế theo di chúc theo các lý do sau:
*Trước hết, di chúc chỉ phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm mở thừa kế của người để lại di sản theo di chúc.
*Thứ hai, người thừa kế theo di chúc là người được chỉ định thừa kế di sản theo ý chí của người lập di chúc khi còn sống.
Do vậy, người được thừa kế theo di chúc cố ý giết người thừa kế theo di chúc khác để chiếm đoạt phần di sản của người thừa kế này được hưởng là không thể thực hiện được, vì phần của mỗi người đã được chỉ định theo di chúc.
* Điểm d Khoản 1 Điều 643 quy định: “Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí cuả người để lại”.
- Di chúc là kết quả giao dịch dân sự đơn phương, nó chỉ thể hiện ý chí của người có tài sản lập di chúc. Ý chí của người lập di chúc phải hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt trong khi minh mẫn và sáng suốt. Quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi chết của một cá nhân chính là quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản khi còn sống. Bởi vậy, mọi cá nhân có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc đều bị tước quyền hưởng di sản. Người có hành vi lừa dối người có tài sản trong việc lập di chúc là người có