Đề tài Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành

Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ.Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác.Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc.Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có.Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo qui định của pháp luật. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu.Tầm quan trọng của pháp luật ngày càng nâng cao.Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết.Và việc tìm hiểu phương pháp xây dụng pháp luật ở nước ta, một nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.Luật pháp cũng được xây dụng trên các nguyên tắc tự do, bình đẳng làm hàng đầu, việc đi nghiên cứu để làm sang tỏ quyền bình đẳng trong các quan hệ dân sự trong luật dân sự, một bộ luật gắn với thực tiễn đời sống nhân dân. Từ hai lí do trên em quyết định nghiên cứu vấn đề nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành nhưng vì thời gian, trình độ và tài liệu còn hạn chế nên em chỉ có thể nghiên cứu một phần nào trong qui định về thừa kế theo pháp luật dân sự hiện hành.

doc20 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2400 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.ĐẶT VẤN ĐỀ. Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ.Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác.Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc.Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có.Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo qui định của pháp luật. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu.Tầm quan trọng của pháp luật ngày càng nâng cao.Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết.Và việc tìm hiểu phương pháp xây dụng pháp luật ở nước ta, một nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.Luật pháp cũng được xây dụng trên các nguyên tắc tự do, bình đẳng làm hàng đầu, việc đi nghiên cứu để làm sang tỏ quyền bình đẳng trong các quan hệ dân sự trong luật dân sự, một bộ luật gắn với thực tiễn đời sống nhân dân. Từ hai lí do trên em quyết định nghiên cứu vấn đề nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành nhưng vì thời gian, trình độ và tài liệu còn hạn chế nên em chỉ có thể nghiên cứu một phần nào trong qui định về thừa kế theo pháp luật dân sự hiện hành. B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I-Cơ sở lý luân: Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật có nội dung kinh tế xã hội sâu sắc, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người.Quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định quy định tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 :“ Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18.Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân. ”, đây là sự ghi nhận mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.Được cụ thể hóa ngay trong Điều 5 BLDS: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau” và được quy định trong phần thứ tư của Bộ luật Dân sự.Nguyên tắc cơ bản của quyền thừa kế được phản ánh trong Bộ luật Dân sự đó là: Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.Thừa kế là sự chuyển dịch quyền sở hữu bằng hai phương thức khác nhau: Thứ nhất là sự định đoạt theo ý nguyện cuối cùng của người để lại thừa kế theo di chúc; thứ hai là theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật đều được pháp luật bảo đảm cho việc hưởng di sản của người chết để lại. Một nguyên tắc nữa mà pháp luật quy định đó là quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân.Nguyên tắc này là sự cụ thể hoá một phần các nguyên tắc cơ bản của bộ luật dân sự.Đó là quyền bình đẳng giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự trong khi xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Quyền bình đẳng trong quan hệ về thừa kế được thể hiện: Mọi cá nhân không phân biệt nam, nữ, tuổi tác, thành phần, tôn giáo, địa vị chính trị, xã hội… đều có thể để lại tài sản của mình cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật.Như vậy có nghĩa là mọi người đều có thể lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế.Vợ chồng đều được thừa kế của nhau, phụ nữ và nam giới, con trai, con gái đều được hưởng thừa kế ngang nhau theo quy định của pháp luật. Pháp luật cũng quy định người thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản. Người thừa kế nhận di sản thì được hưởng tài sản, các quyền tài sản mà người chết để lại, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản hoặc tương ứng phần di sản mà mình đã nhận. Người nhận thừa kế có thể từ chối nhận di sản.Tuy nhiên Bộ luật dân sự không cho người thừa kế từ chối nhận di sản nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Nguyên tắc tôn trọng quyết định đoạt bằng di chúc là nguyên tắc cơ bản cuối cùng về quyền thừa kế.Nguyên tắc nêu rõ: Quyền định đoạt bằng di chúc của người có tài sản phải được tôn trọng; đồng thời bảo hộ chính đáng quyền lợi của một số người trong diện thừa kế đương nhiên ( thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc ). Như đã nói ở trên, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho bất cứ ai.Có nghĩa là nếu người chết để lại di chúc (hợp pháp) thì việc thừa kế sẽ tiến hành theo di chúc.Tuy nhiên việc định đoạt của người lập di chúc bị hạn chế trong trường hợp quy định Bộ luật Dân sự. Trên đây là những nguyên tắc cơ bản nhất trong phần thừa kế, được kế thừa các văn bản pháp luật về thừa kế trước đây phù hợp với nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân, cũng như phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc của nhân dân ta. Về thời điểm mở thừa kế, Điều 633 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Do đó, nếu cá nhân lập di chúc thì di chúc chỉ có hiện lực khi người lập di chúc qua đời. khi lập di chúc, quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc, người hưởng thừa kế chỉ có quyền đối với tài sản do người lập di chúc để lại là sau khi ngưòi lập di chúc chết. Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. II-Thừa kế theo qui định pháp luật ở Việt Nam: 1)Qui định chung: Quyền thừa kế của cá nhân (theo điều 631 BLDS 2005) : "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật." Như vậy thừa kế theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức, có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản theo di chúc hay theo pháp luật (riêng đối với đất đai là thừa kế quyền sử dụng). Sự chuyển dịch di sản của người chết sang người sống sẽ được thực hiện theo hai căn cứ: Nếu căn cứ theo ý chí,nguyện vọng của người chết thì được gọi là thừa kế theo di chúc; Nếu căn cứ theo các qui định của pháp luật thì được coi là thừa kế theo pháp luật. Các nguyên tắc cơ bản của thừa kế: - Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế: Pháp luật thừa kế luôn tôn trọng ý chí của những người tham gia trong quan hệ thừa kế.Nếu như người để lại di sản mà có để lại di chúc thì việc phân chia di sản theo di chúc bao giờ cũng được ưu tiên giải quyết trước, phần tài sản chia cho những người thừa kế cũng tùy thuộc vào di chúc mà người chết để lại. Đó chính là sự tôn trọng ý trí của người để lại di sản.Và ngược lại, những người thừa kế có quyền đồng ý nhận toàn bộ di sản được thừa hưởng hoặc chỉ nhận một phần hoặc khước từ việc thừa hưởng di sản từ người chết đó là sự tôn trọng ý chí của người thừa kế. - Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về quyền thừa kế: Theo điều 632 BLDS-2005: " Mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật ". Theo điều luật này thì mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác và mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng trong việc thừa hưởng tài sản theo di chúc tức là bất kì cá nhân nào dũng được phép nhận tài sản theo ý chí của người chết.Còn sự bình đẳng trong việc hưởng di sản là tất cá những người thừa kế theo qui định của pháp luật đều có quyền hưởng phần tài sản bằng nhau. - Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế: Điều 635-BLDS 2005 đã qui định " Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế..." Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp nối về sở hữu tài sản giữa người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản đương nhiên phải là người còn sống.Việc dịch chuyển di sản từ người chết này sang người chết khác là không thực hiện được.Tiếp đó là việc người còn sống đó phải còn sống ở thời điểm mở thừa kế.Có thể người thừa kế đã chết nhưng khi mở thừa kế thì ông ta còn sống hoặc đã chết hay mất tích nhưng chưa bị tuyên bố là đã chết hoặc ngày tuyên bố nguời đó chết là sau ngày mở thừa kế, khi đó ông ta việc chuyển giao di sản cho ông ta vẫn được thực hiện và nó sẽ được tính vào tài sản của người đó. Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố là đã mất tích hoặc chết nhưng sau đó người đó còn sống trở về thì người đó vẫn được coi là còn sống và được quyền hưởng di sản sau khi tòa án hủy bỏ tuyên bố mất tích hoặc đã chết. - Người thừa kế có quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại: Quyền luôn luôn đi kèm với nghĩa vụ. Do đó những người thừa kế có quyền thừa hưởng di sản để lại từ người chết theo di chúc hoặc theo pháp luật, phần di sản họ được hưởng có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau tùy theo ý chí của người chết. Đồng thời họ có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo điều 637-BLDS 2005, nghĩa vụ tài sản họ phải thực hiện sẽ tùy theo phần mà họ được hưởng. Nếu người thừa kế khước từ hoặc không được nhận phần di sản để lại của người chết thì họ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết. 2)Thừa kế theo di chúc: Theo Điều 646 BLDS: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhầm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.Theo qui định này thì di chúc phải đảm bảo các yếu tố sau: - Đó là sự thể ý chí của cá nhân người lập di chúc mà không phải là của bất cứ chủ thể nào khác. - Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho người khác. - Di chúc chỉ có hiệu lực khi người đó chết. Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di chức phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng.Vì vậy, muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc. Nội dung của bản thừa kế theo di chúc là ý nguyện của người chết khi còn sống để lại tài sản của mình là di sản cho những người còn sống, là chỉ định người thừa kế (cá nhân, tổ chức) và phân định tài sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài sản.. Người lập di chúc là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi, có các quyền sau đây: + Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế: - Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất kì một cá nhân hoặc tổ chúc nào.Người nhân di sản có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế theo qui định của pháp luật hoặc có thể là Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội…Quyền định đoạt của người lập di chúc còn thể hiện qua việc họ truất quyền hưởng di sản của những người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lí do.Đặc quyền của người lập di chúc định đoạt tài sản của mình là rất lớn, tất cả đều dựa trên nguyên tắc tự do về quyền tài sản được pháp luật bảo về, quyền lập di chúc bình đẳng cho tất cả mọi cá nhân thuộc Điều 647 BLDS. - Người lập di chúc còn có các đặc quyền khác như: giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản; chỉ định người giữ di chúc, người quản lí di sản, người phân chia di sản; quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy di chúc.Một bản di chúc hợp pháp phải tuân thủ đầy đủ các thủ tục, trình tự được qui định trong các Điều 650, 651, 652, 653 BLDS.Và nhất thiết để bản di chúc hợp pháp là người lập di chúc phải tự nguyện. Quyền của người nhận di sản thừa kế (người được chỉ định trong di chúc) là những người có quyền nhận di sản do người chết để lại theo sự định đoạt trong di chúc.Người thừa kế theo di chúc cũng cần phải có những điều kiện qui định ở điều 635 BLDS, khi đã đủ điều kiện nhận di sản, người thừa kế theo di chúc co quyền nhận hoặc từ chối nhân di sản.Nếu nhận di sản thì phải thực hiện nghĩa vụ ứng với phần di sản theo di chúc mình đã nhân theo điều 637 BLDS.Trong trường hợp là Nhà nước, cơ quan, tổ chức, hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân. Pháp luật quy định người để lại di sản có toàn quyền trong việc truất quyền hưởng di sản của những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.Nhưng để đảm bảo lợi ích của một số người trong diện thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc được thể hiện ở Điều 669 BLDS.Những người này thuộc diện người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, họ sẽ được hưởng 2/3 một suất thừa kế khi chia theo pháp luật. 3)Thừa kế theo pháp luật: Ta có thể hiểu một cách đơn giản thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người thừa kế theo qui định của pháp luật thừa kế.Theo điều 674 Bộ luật dân sự 2005: " thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định ". Theo qui định của thừa kế theo pháp luật thì sau khi người để lại tài sản qua đời, tài sản sẽ được chia đều cho những người thừa kế của người đó.Những người thừa kế này được xác định thông qua ba mối quan hệ chính là: -Quan hệ hôn nhân -Quan hệ huyết thống -Quan hệ nuôi dưỡng Những người thừa kế theo qui định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, dù cho người đó có bị hạn chế năng lực hành vi hay thậm chí bị mất năng lực hành vi thì người đó vẫn có quyền thừa kế.Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công dân về quyền thừa kế nên mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế từ người chết và bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong phạm vi di sản mình nhận được. Vì phạm vi những người thừa kế rộng nên pháp luật chia những người thừa kế thành nhiều hàng thừa kế.Trong đó những người thuộc hàng thứ nhất là những người có quan hệ hôn nhận, huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác.Các hàng thứ hai, thứ ba là các hàng dự bị, chỉ được hưởng di sản nếu như không còn ai ở hàng thứ nhất hoặc hoặc có nhưng họ đều không nhận hoặc không được quyền nhận.Vấn đề diện và hàng thừa kế này sẽ được nói kĩ hơn ở phần sau. Các trường hợp thừa kế theo qui định của pháp luật: Ở nước ta từ xưa đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp luật liệt kê các trường hợp thừa kế theo pháp luật.Và cùng với sự tiến bộ của hệ thống pháp luật thì các văn bản này các ngày càng hoàn thiện hơn, cho đến nay thì các trường hợp được nêu ra trong BLDS 2005 được coi là chi tiết và đầy đủ nhất.Theo điều 675 BLDS 2005 thì các trường hợp thừa kế theo pháp luật được chia ra 2 nhóm sau đây: + Nhóm thứ nhất: Nhóm di sản thừa kế hoàn toàn được chia theo pháp luật (nhóm di sản được thừa kế tuyệt đối) bao gồm các trường hợp: -Không có di chúc. -Di chúc không hợp pháp toàn bộ. -Di chúc hợp pháp nhưng toàn bộ di chúc không có hiệu lực thi hành do tất cả người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc đều không có quyền hưởng di sản hoặc đều từ chối quyền hưởng di sản; cơ quan tổ chức được hưởng thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế. + Nhóm thứ hai: Di sản vừa được chia theo di chúc vừa được chia theo qui định của pháp luật (Nhóm di sản thừa kế tương đối) bao gồm các trường hợp: -Có phần di sản không được định đoạt trong di chúc. -Có một phần di chúc không có hiệu lực pháp luật. -Có một hoặc một số người trong những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; một hoặc một số cơ quan, tổ chức trong số các cơ quan, tổ chức được thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế hoặc có một hoặc một số người trong những người thừa kế không được quyền hưởng di sản hay từ chối quyền hưởng di sản theo di chúc. Cuối cùng là một điểm đặc trưng của thừa kế theo pháp luật đó là qui định về trường hợp thừa kế thế vị: Theo điều 677 BLDS-2005: " Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản của cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; Nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cón sống ". Như vậy theo qui định trên ta có thể hiểu thừa kế thế vị là việc con đẻ thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để nhận phần di sản do ông hoặc bà để lại khi mà cha hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông hoặc bà.Những người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản bằng với những người cùng hàng với người được thế vị.Nếu người thế vị là cháu thì cháu phải sống vào thời điểm ông, bà chết; Người thế vị là chắt thì chắt phải sống vào thời điểm cụ nội, cụ ngoại chết. III-Diện và hàng thừa kế: 1)Diện và hàng thừa kế theo qui đinh của pháp luật Việt Nam: a)Diện thừa kế: Diện những người thừa kế là phạm vi những người hưởng di sản thừa kế của người chết theo qui định của pháp luật. Như đã nói ở trên, diện những người thừa kế được pháp luật dựa trên ba mối quan hệ chính với người để lại di sản: - Quan hệ hôn nhân: Xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng. - Quan hệ huyết thống: Quan hệ giữa những người cùng dòng máu (Cụ với ông, bà; Ông, bà với cha mẹ; Cha mẹ với các con; Anh chị em ruột...) -Quan hệ nuôi dưỡng: Xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc., nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (Cha mẹ nhận nuôi con nuôi). Diện những người thừa kế được xếp thành ba hàng thừa kế. Thừa kế được phân chia theo nguyên tắc sau: Di sản thừa kế chỉ được chia cho một hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên: hàng 1, 2, 3.Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau; những người hàng thừa kế sau chỉ được thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. b)Hàng thừa kế: Theo pháp luật, di sản của người chết được chia cho những người thân thích, gần gũi đối với người chết.Tuy nhiên mức độ gần gũi, thân thiết của những người thân thích đó với người chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế trở nên khó khăn, phức tạp.Vấn đề này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới chứ không phải chỉ ở riêng Việt Nam.Và phần lớn các nước đặt ra qui định về hàng thừa kế để giải quyết vấn đề này. Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại. Theo khoản 1 điều 678 BLDS 2005, pháp luật Việt Nam chia những người trong diện thừa kế ra làm ba hàng: - Hàng thứ nhất bao gồm: Vợ (chồng), cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau: + Quan hệ thừa kế của vợ chồng: Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân.Theo điều 8 luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì " hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn".Vì thế vào thời điểm mở thừa kế nếu quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại thì họ được quyền hưởng thừa kế của nhau. + Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con, quan hệ này được xác lập the
Luận văn liên quan