Nguyên tắc QTĐĐ của đương sự trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản, chi phối quá trình TTDS. Nó luôn được coi trong trong bất kì giai đoạn nào của sự phát triển kinh tế xã hội,và được quy định trong nhiều văn bản pháp lí, hiện nay được luật hóa tại Điều 50 Hiến pháp 1992 và Điều 5 BLTTDS 2004. Tuy nhiên thực tế trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện nguyên tắc này vẫn chưa được bảo đảm thực hiện một cách tốt nhất. Sau đây em xin đề cập đến một số vấn đề lí luận cũng như thực tiễn thực hiện nguyên tắc này và đưa ra các định hướng khắc phục.
20 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3236 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
MỞ ĐẦU
Nguyên tắc QTĐĐ của đương sự trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản, chi phối quá trình TTDS. Nó luôn được coi trong trong bất kì giai đoạn nào của sự phát triển kinh tế xã hội,và được quy định trong nhiều văn bản pháp lí, hiện nay được luật hóa tại Điều 50 Hiến pháp 1992 và Điều 5 BLTTDS 2004. Tuy nhiên thực tế trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện nguyên tắc này vẫn chưa được bảo đảm thực hiện một cách tốt nhất. Sau đây em xin đề cập đến một số vấn đề lí luận cũng như thực tiễn thực hiện nguyên tắc này và đưa ra các định hướng khắc phục.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NTQTĐĐ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TTDS
Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc
Nguyên tắc của luật TTDS Việt Nam là những tư tưởng pháp lí chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS, được ghi nhận trong các văn bản TTDS.
Hiểu về quyền tự định đoạt của đương sự hiện nay có rất nhiều quan điểm, theo quan điểm trường ĐHLHN thì: quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự quyết định về quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó. Do nó là vấn đề cơ bản của TTDS, chi phối quá trình TTDS nên nó được quy định là một nguyên tắc cơ bản của LTTDS.
Ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản trong TTDS. Ngoài những ý nghĩa chung là bảo đảm pháp chế XHCN, là cơ sở xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật TTDS thì nguyên tắc này còn có ý nghĩa riêng sau:Thứ nhất, Việc Điều 5 BLTTDS quy định: cho đương sự quyền yêu cầu TA có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự và quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đã tạo cơ sở pháp lí vững chắc bảo đảm một cách có hiệu quả cho việc thực hiện nguyên tắc này, giúp đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thứ hai, Nguyên tắc này có ý nghĩa xác định trách nhiệm của TA trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự với quy định: “...Tòa án chỉ thụ lí giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự...TA chỉ giải quyết trong phạm vi đơn kiện,đơn yêu cầu... điều này ràng buộc TA phải nâng cao trách nhiệm trong công việc giải quyết đúng, đầy đủ các yêu cầu của đương sự, khi có đơn khởi kiện hoặc yêu cầu và không bỏ sót, hay giải quyết vượt quá yêu cầu đó, giúp bảo đảm tốt nhất quyền, lợi cho đương sự. Thứ ba, Việc quy định nguyên tắc này còn có ý nghĩa làm cơ sở phát huy năng lực xét xử của TA theo hướng bảo vệ quyền các bên đương sự, tăng niềm tin của nhân đối với sức mạnh của TA-nơi cầm cán cân công lí.
Từ những phân tích trên ta thấy việc tìm hiểu và nghiên cứu nội dung nguyên tắc không chỉ có ý nghĩa quan trong đối với các cơ quan và cán bộ làm công tác pháp luật, mà sự hiểu biết nguyên tắc cũng là công cụ để đương sự tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đối với TA việc tìm hiểu nguyên tắc giúp TA nhận thức đúng đắn nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình trong quá trình xét xử, hạn chế được những sai lầm cũng như vi phạm pháp luật trong giải quyết vụ án.
Cơ sở khoa học quy định nguyên tắc
Cơ sở lí luận
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng giữa các chủ thể. Theo quan điểm của PGS.TS Phạm Hữu Nghị thì “quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong mối quan hệ dân sự”. Từ đó ta có thể thấy rằng quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS chính là quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh bởi các nguyên tắc trong giao lưu dân sự do pháp luật nội dung quy định.
Mặt khác, nguyên tắc này được đặt ra xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự. Bởi theo như quy định tại Điều 9 BLTTDS thì đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác đủ điều kiện quy định của BLTTDS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên nếu không có những quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự. Do đó pháp luật TTDS đã đưa ra quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS tại Điều 5 BLTTDS là vấn đề hợp lí.
Cơ sở thực tiễn
Các tranh chấp diễn ra trong đời sống XH là một tất yếu khách quan, những xét về nội dung tranh chấp dân sự không phải hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức bị coi là tội phạm. Cho nên đối với quan hệ pháp luật hình sự, khi có hành vi phạm tội, các cơ quan Nhà nước sẽ tiến hành khởi tố trừ trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại; Do TNHS là trách nhiệm của công dân đối với nhà nước. Còn trách nhiệm dân sự là trách nhiệm giữa công dân với nhau, nên khi xảy ra tranh chấp dân sự, bên nào nhận thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có thể khởi kiện, hoặc yêu cầu TA giải quyết vụ việc dân sự. Nếu người có quyền và lợi ích bị xâm phạm không yêu cầu TA giải quyết TA sẽ không có quyền giải quyết
Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều bất cập: Một mặt, người dân do không hiểu biết pháp luật, nên không biết mình có quyền yêu cầu TA giải quyết lúc quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm. Hoặc có trường hợp yêu cầu nhưng đương sự lại hiểu sai quy định pháp luật. Và nhiều trường hợp, đương sự lại đưa ra yêu cầu không đầy đủ. Do đó, cần phải quy định đương sự hoàn toàn có quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu.
Mặt khác từ phía TA cũng tồn tại nhiều sai sót. Có trường hợp, nhận được yêu cầu của đương sự nhưng TA không tiến hành giải quyết, hoặc giải quyết không đúng phạm vi yêu cầu của đương sự. Cho nên quy định quyền tự định đoạt của đương sự, và ghi nhận trách nhiệm của TA trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt đó là yêu cầu cần thiết. Việc luật hóa nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự tại Điều 5 BLTTDS hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khách quan, góp phần bảo đảm tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, tăng cường pháp chế xã hội chũ nghĩa.
Mối liên hệ giữa NTQTĐĐ của đương sự với các nguyên tắc khác trong TTDS
Mối liên hệ với NT quyền yêu cầu của TA bảo vệ quyền, lơi ích hợp pháp
Nguyên tắc quyền tự định đoạt (QTĐĐ) của đương sự trong TTDS với nguyên tắc quyền yêu cầu của TA có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Theo nguyên tắc QTĐĐ của đương sự các đương sự có quyền tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình phù hợp với yêu cầu pháp luật, như khởi kiện, thay đổi yêu cầu khởi kiện, từ hòa giải với các đương sự phía bên kia. Nhưng quyền tự định đoạt của đương sự có được thực hiện đúng hay không lại phụ thuộc vào việc bảo đảm thực hiện được các quyền TTDS khác của đương sự. Do vậy, trong quan hệ giữa hai nguyên tắc này thì nguyên tắc QTĐĐ của đương sự là đối tượng, mục đích của hoạt động TTDS còn nguyên tắc yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là phương tiện để đạt được mục đích đó.
Mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự
Nguyên tắc QTĐĐ của đương sự sẽ là cơ sở bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự. Còn nguyên tắc bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự là hình thức thể hiện của nguyên tắc QTĐĐ. TA phải có trách nhiệm áp dụng biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để tạo điều kiện cho đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Mối liên hệ với nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS
Hai nguyên tắc này có mối quan tương hỗ với nhau. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS có nghĩa là các đương sự bình đẳng khi thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng, có quyền định đoạt như nhau khi tham gia phiên tòa. Vì vậy việc thực hiện nguyên tắc QTĐĐ của đương sự trong TTDS sẽ góp phần bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS.
Mối liên hệ với nguyên tắc hòa giải trong TTDS
Nguyên tắc hòa giải trong TTDS là nguyên tắc bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc QTĐĐ của đương sự. Theo Điều 5 BLTTDS, trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội. Tuy nhiên, để quy định này có thể thực hiện được một cách nghiêm túc, bảo đảm tốt quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự pháp luật cần phải quy định về trách nhiệm của TA bảo đảm cho việc tiến hành thỏa thuận giữa các đương sự với nhau. Và nguyên tắc hòa giải trong TTDS chính là quy định đảm bảo cho việc thực hiện thỏa thuận của đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
NỘI DUNG NTQTĐĐ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TTDS
QTĐĐ xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh- thương mại, lao động là các quan hệ được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia giao kết. Cho nên, khi quyền và lợi ích của các chủ thể giao kết bị vi phạm việc khởi kiện hay không, phạm vi khởi kiện đến mức độ nào hoàn toàn phụ thuộc vào chính ý chí các chủ thể đó. Điều 5 BLTTDS đã quy định :
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó; 2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.
Theo quy định trên, quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được thể hiện trên các phương diện: (1) Khởi kiện, (2) Đưa ra, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu khởi kiện, (3) Đưa ra, thay đổi, bổ sung hoặc rút căn cứ khởi kiện.
QTĐĐ của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS đương sự có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Theo Điều 60 BLTTDS bị đơn có quyền định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố. Và Điều 61 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu đối với nguyên đơn, bị đơn.
QTĐĐ của đương sự trong việc khởi kiện VADS, yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Thứ nhất, với quy định tại Điều 161 và 162 BLTTDS(xem phụ lục) Nhà nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan tổ chức yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Thực hiện quyền khởi kiện chính này là một biểu hiện của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong khởi kiện VADS.
Thứ hai, QTĐĐ đối với yêu cầu giải quyết việc dân sự. Trong các việc dân sự thì không có tranh chấp trực tiếp giữa các bên. Nhưng người yêu cầu vụ việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong VADS. Họ được quyền đưa ra yêu cầu cho TA giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu TA công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hoặc công nhận các quyền, nghĩa vụ của họ. Việc BLTTDS ghi nhận quyền này của đương sự đã góp phần thực thi nguyên tắc QTĐĐ của đương sự
Quyền tự định đoat trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn
Nếu như nguyên đơn được pháp luật trao cho quyền khởi kiện thì bị đơn được trao cho quyền phản tố đối với nguyên đơn, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yên cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Ngoài ra BLTTDS còn quy định bị đơn có quyền bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn (bác bỏ về mặt nội dung và bác bỏ về mặt tố tụng) (tức là bị đơn được đưa ra các chứng cứ lập luận chứng minh yêu cầu của nguyên đơn là không có căn cứ cả về pháp lí và thực tế, bác bỏ về tố tụng là bị đơn được đưa ra lí luận chứng minh cho sự vi phạm thủ tục tố tụng trong thụ lí và giải quyết vụ án. Việc quy định quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn là sự ghi nhận của pháp luật đối với QTĐĐ của đương sự.
QTĐĐ trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Trong TTDS người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người TGTT vào VADS đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chính mình, họ có quyền được đưa ra yêu cầu độc lập trước TA. Việc tham gia tố tụng của họ tùy thuộc vào ý chí của bản thân, họ có thể tham gia với tư cách người có yêu cầu độc lập hoặc có yêu cầu không độc lập. Nếu tham gia với tư cách NCQNVLQ có yêu cầu độc lập thì TA phải xem xét giải quyết cả yêu cầu đó. Còn NCQNVLQ có yêu cầu không độc lập tức là họ không có quyền và nghĩa vụ như nguyên đơn, bị đơn, nhưng họ cũng có quyền cùng nguyên đơn hoặc bị đơn thỏa thuận với bên đương sự kia và được thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên đương sự đó.
Đối với NCQNVLQ trong việc dân sự là người TGTT vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền, lợi nghĩa vụ đó. Việc TGTT của họ cũng giống việc TGTT của người có liên quan trong VADS có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hay theo yêu cầu của TA.
QTĐĐ của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự
QTĐĐ của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầukhởi kiện
Do trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, BLTTDS không quy định giới hạn phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nên nguyên đơn có thể thay đổi, bổ sung đối tượng khởi kiện, thay đổi, bổ sung những yêu cầu mới đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Còn tại phiên tòa theo Điều 218 BLTTDS nguyên đơn vẫn có quyền thay đổi yêu cầu của mình tuy nhiên không được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu (vấn đề này được hướng dẫn cụ thể tại mục 6, phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006
Đối với việc rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu, trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được TA chấp nhận. Tuy nhiên nếu nguyên đơn, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự, thì để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả hai bên đương sự, Điều 269 quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tùy từng trường hợp mà giải quyết. Nếu bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và ra quyết định hủy bản án sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án, nếu không đồng ý thì không chấp nhận rút đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 193, khoản 2 Điều 269 việc TA ra quyết định đình chỉ giải quyết VA trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì nguyên đơn vần có quyền đệ đơn kiện lại yêu cầu TA giải quyết.
Nguyên đơn có quyền rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện (điểm b, khoản 1 Điều 59, trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện, thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ việc điểm c khoản 1 Điều 192). Tại phiên tòa nếu nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình tự nguyện thì HĐXX chấp nhận và đình chỉ XX với phần yêu cầu bị rút hoặc toàn bộ yêu cầu bị rút đó(khoản 2 Điều 218). Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu của mình mà bị đơn vẫn giữ yêu cầu phản tố thì bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn và nguyên đơn lại thành bị đơn. Nếu cả nguyên đơn và bị đơn đều rút yêu câu, yêu cầu phản tố mà NCQLNVLQ vẫn giữ yêu cầu thì sẽ trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn (Điều 219). Người yêu cầu trong việc dân sự cũng có quyền rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, nêu người yêu cầu tự nguyện rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình thì TA chấp nhận và đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của người yêu cầu.
Việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự phải dựa vào ý chí của đương sự, TA sẽ không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu do đương sự bị ép buộc.
QTĐĐ của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự
Trong quá trình TA giải quyết vụ việc dân sự các bên vẫn có quyền thương lượng với nhau giải quyết vụ việc bằng ý chí và sự tự nguyện của mình, TA phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận đó, không được dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, bắt các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình.
Tuy nhiên việc hòa giải chỉ giới hạn ở một số trường hợp nhất định trừ các trường hợp tại Điều 181 BLTTDS.
Đối với việc hòa giải ở cấp sơ thẩm, trước khi mở phiên tòa hòa giải là thủ tục bắt buộc với những loại việc mà pháp luật quy định trừ trường hợp VADS không được hòa giải quy định tại Điều 181 và những vụ án không tiến hành hòa giải được tại Điều 182.
Trước khi mở phiên tòa các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề giải quyết toàn bộ vụ án dân sự thì TA lập biên bản hòa giải thành. Hết thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được Chánh án TA phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó (khoản 2 Điều 186 BLTTDS). Tại phiên tòa sơ thẩm Theo quy định tại Điều 220 BLTTDS, HĐXX phải hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không, nêu thỏa thuận được không trái quy định pháp luật, đạo đức xã hội thì HĐXX ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự, quyết định này có hiệu lực ngay.
Tại giai đoạn phúc thẩm tuy pháp luật không quy định cụ thể tuy nhiên TAPT phải hòa giải trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm nhưng: nếu tại TA cấp phúc thẩm các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án không trái pháp luật, đạo đức xã hội thì HĐXX phúc thẩm ra bản án phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, công nhân sự thỏa thuận của các đương sự. Mục 5 phần III nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP, ngày 4/8/2006 đã quy định cụ thể (xem phụ lục). Trường hợp tại phiên tòa Phúc thẩm nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận này phải được ghi vào biên bản phiên tòa, nếu xét thấy thỏa thuận đó không trái luật, đạo đức xã hội và hoàn toàn tự nguyện thì HĐXX vào phòng nghi án thảo luận và ra bản án phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự .
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự còn được thể hiện ở quyền tự thỏa thuận của đương sự. Theo đó, các đương sự có quyền thỏa thuận, dàn xếp, thương lượng với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong VADS mà không thông qua TA.
Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa thì TA ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm đ khỏa 1 Điều 192.
Như vậy, với ý nghĩa là một nội dung cơ bản của QTĐĐ của đương sự, quyền thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự là quyền tố tụng rất quan trọng của đương sự được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, trừ những trường hợp BLTTDS quy định không được tiến hành hòa giải. Việc ghi nhận quyền thỏa thuận của đương sự chính là sự tôn trọng của pháp luật đối với các quyền cơ bản của con người, trong đó các đương sự có quyền tự mình giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, tự mình giải quyết việc bảo vệ quyền lợi của mình trước TA là biện pháp giải quyết vụ án hữu hiệu nhất. Đồng thời góp phần quan trọng nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục nếp sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ, quyền lợi ích hợp pháp của mình
Để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của mình đương sự có thể ủy quyền cho người khác thay mình TGTT. Người này được goị là người đại diện theo sự ủy quyền của đương sự, người này phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Việc cử người đại diện theo ủy quyền, hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của đương sự.
Quyền nhờ người kh