Cũng giống như bất kì hoạt động có mục đích nào, quản lí hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lí hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả các công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công.
Các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, từ hiến pháp, luật cho đến các văn bản dưới luật. Điều này thể hiện tính chất pháp lí của các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước. Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước ghi nhận những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước. Đến lượt mình, các văn bản luật và dưới luật lại cụ thể hóa nội dung các nguyên tắc này trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của nhà nước. Những nguyên tắc được quy định trong hiến pháp là những nguyên tắc cơ bản và được coi là cơ sở của hệ thống các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước.
Các nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước với nội dung rất đa dạng có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc phân loại chúng một cách khoa học là vô cùng cần thiết. Dựa theo bản chất, các nguyên tắc này được phân ra hai loại: các nguyên tắc chính trị – xã hội và các nguyên tắc tổ chức – kĩ thuật. Nhóm các nguyên tắc chính trị – xã hội bao gồm: Nguyên tắc Đảng lãnh đạo; Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia quản lí hành chính nhà nước; Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và không thể không nhắc tới một nguyên tắc cơ bản mang nhiều ý nghĩa trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta đó là nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước.
Vấn đề áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và các biểu hiện của nguyên tắc đó như thế nào trong tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lí hành chính nhà nước, trong từng loại cơ quan quản lí cũng như mỗi cơ quan, sao cho hai mặt tập trung và dân chủ được kết hợp một cách hợp lí, tối ưu phù hợp bản chất, đặc thù của vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và từng vấn đề mà nó giải quyết ở từng thời điểm lịch sử cụ thể luôn luôn là vấn đề cấp bách của khoa học lí luận quản lí nhà nước và luật hành chính
11 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2529 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Cũng giống như bất kì hoạt động có mục đích nào, quản lí hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lí hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả các công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công.
Các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, từ hiến pháp, luật cho đến các văn bản dưới luật. Điều này thể hiện tính chất pháp lí của các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước. Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước ghi nhận những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước. Đến lượt mình, các văn bản luật và dưới luật lại cụ thể hóa nội dung các nguyên tắc này trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của nhà nước. Những nguyên tắc được quy định trong hiến pháp là những nguyên tắc cơ bản và được coi là cơ sở của hệ thống các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước.
Các nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước với nội dung rất đa dạng có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc phân loại chúng một cách khoa học là vô cùng cần thiết. Dựa theo bản chất, các nguyên tắc này được phân ra hai loại: các nguyên tắc chính trị – xã hội và các nguyên tắc tổ chức – kĩ thuật. Nhóm các nguyên tắc chính trị – xã hội bao gồm: Nguyên tắc Đảng lãnh đạo; Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia quản lí hành chính nhà nước; Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và không thể không nhắc tới một nguyên tắc cơ bản mang nhiều ý nghĩa trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta đó là nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước.
Vấn đề áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và các biểu hiện của nguyên tắc đó như thế nào trong tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lí hành chính nhà nước, trong từng loại cơ quan quản lí cũng như mỗi cơ quan, sao cho hai mặt tập trung và dân chủ được kết hợp một cách hợp lí, tối ưu phù hợp bản chất, đặc thù của vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và từng vấn đề mà nó giải quyết ở từng thời điểm lịch sử cụ thể luôn luôn là vấn đề cấp bách của khoa học lí luận quản lí nhà nước và luật hành chính
NỘI DUNG
Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Khái niệm, cơ sở pháp lý của nguyên tắc tập trung dân chủ:
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước và hoạt động quản lí hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện theo nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 1992 “Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Điều 6 Luật tổ chức chính phủ 2001 qui định: “Chính phủ tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân 2003 một lần nữa khẳng định nguyên tắc này tại Điều 3 “Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ ”. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ
Tập trung trong quản lí hành chính nhà nước có thể hiểu là sự lãnh đạo tập trung nhưng không phải là tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó đảm bảo cho chính quyền cấp dưới, quần chúng ở địa phương và cơ sở khả năng thực hiện quyết định của trung ương căn cứ vào các điều kiện thực tế của mình, đồng thời đảm bảo tính sáng tạo, quyền chủ động của địa phương và cơ sở trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. V.I.Lê nin có viết về điều này: “ …chế độ tập trung hiểu theo nghĩa thực sự dân chủ, đã bao hàm khả năng… phát huy một cách đầy đủ và tự do không những các đặc điểm của địa phương mà cả những sáng kiến của địa phương, tính chủ động của địa phương tính muôn hình muôn vẻ của các đường lối, của các phương pháp và phương tiện để đạt đến mục đích chung”
Dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước có thể hiểu là dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là việc phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ cả hai yếu tố tập trung và dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền, tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng phát triển, lực lượng dân chủ sẽ bị phát tán, không đủ sức chống lại các thế lực phản động, phản dân chủ. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương.
Sự cần thiết tất yếu của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước:
Sự cần thiết tất yếu phải áp dụng các nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý của nhà nước nói một cách khái quát là vì những lí do sau đây:
Từ mục đích, bản chất của Nhà nước XHCN là đảm bảo thực hiện quyền lực và lợi ích làm chủ xã hội của nhân dân lao động. Muốn xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, với cốt lõi là “lấy dân làm gốc” thì nhà nước phải thực sự là cơ quan quyền lực, đại diện cho ý chí quyền lực của nhân dân, hoạt động trên cơ sở phục vụ lợi ích của nhân dân.
Nhà nước XHCN do Đảng Cộng Sản lãnh đạo, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong các hoạt động quản lí, điều hành, kiểm tra, giám sát từ trên xuống dưới, đảm bảo một xã hội có tổ chức, nề nếp, kỉ luật, ăn khớp nhịp nhàng như một bộ máy. Việc làm đó nhằm thực hiện tốt, dúng đắn đường lối, nghị định của Đảng, thể chế hóa các đường lối đó để đưa vào cuộc sống có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân và của toàn xã hội nói chung.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc chính trị của Đảng cộng sản, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Nhà nước chịu sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước được biểu hiện một cách trực tiếp và thực tiễn thông qua tổ chức Đảng và các Đảng viên của Đảng hoạt động trong các cơ quan nhà nước (đặc biệt là các Đảng viên có chức, có quyền). Do đó, đương nhiên tập trung dân chủ từ một nguyên tắc lãnh đạo chính trị trở thành một nguyên tắc trong quản lí điều hành.
CNXH là sự nghiệp sáng tạo, có tính chất khoa học cao, mang đậm tính tự giác, chủ động, tích cực của quần chúng. Chỉ bằng phương pháp áp dụng tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước thì mới có thể đảm bảo cho quàn chúng nhân dân có điều kiện tham gia quản lí, kiểm tra, giám sát ngày một sâu rộng, có hiệu quả đối với các hoạt động, các công việc của nhà nước, nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình với đất nước. Khi ấy, chế độ nhà nước mới thực sự phát triển trở thành một chế độ dân chủ.
Nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ:
Nguyên tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp hài hòa, tương trợ lẫn nhau giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.
* Tuy nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn diện và tuyệt đối mang tính triệt để, mà chỉ áp dụng đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ quan địa phương có cơ sở và khả năng thực hiện quyết định của trung ương; đồng thời, căn cứ trên điều kiện thực tế của mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. Cả hai yếu tố này vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà nước.
* Tập trung dân chủ thể hiện quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của cơ quan quản lý trước cơ quan dân chủ ; phân định chức năng, thẩm quyền giữa cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của cấp trên của trung ương và quyền chủ động của cấp dưới. Ngoài ra, đó là hệ thống "song trùng trực thuộc" của nhiều cơ quan quản lý, bảo đảm sự kết hợp tốt nhất sự lãnh đạo tập trung theo ngành với quyền quản lý tổng thể của địa phương.
* Có sự phân cấp rành mạch. Quyền lực nhà nước không phải được ban phát từ cấp trên xuống cấp dưới. Sự phân quyền cho từng cấp là cần thiết nhưng phải đồng thời được kết hợp với việc xác định vai trò của từng cấp hành chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Từ khi ra đời, mỗi cấp đã có "sứ mệnh lịch sử" và vai trò quản lý hành chính nhà nước riêng, đặc thù. Có những chức năng được thực hiện ở cấp dưới lại có hiệu quả hơn cấp trên, hoặc có những chức năng tất yếu phải được thực hiện ở cấp cơ sở. Hương ước làng xã là một ví dụ. Hương ước không thể được "lập ra" ở cấp huyện, cấp mà có thể có rất nhiều làng xã với những tập quán và lối sống khác nhau. Từ đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện cụ thể như sau:
a) Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định : Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt mình trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Ðể thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và nó luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
- Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, thay đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Ví dụ: Ở trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp; Ở địa phương, các ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước ở địa phương. Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (như bộ, cơ quan ngang bộ …) đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ.
- Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Ý nghĩa: Tất cả sự phụ thuộc nêu trên nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động. Đồng thời đó cũng chính là việc đảm bảo tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước - cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Mặt khác, yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực nhà nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước mà tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để các cơ quan này hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lí hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
b) Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với trung ương.
Nhờ có sự phục tùng này, cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương, nếu không có sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô chính phủ. Tránh buông lỏng sự lãnh đạo, quản lí tập trung của trung ương và cấp trên, dẫn đến nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương.
- Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật.
- Mặt khác, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước.
- Phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện được "thẩm quyền cấp mình". Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của địa phương, cấp dưới.
Ý nghĩa: Nguyên tắc sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhằm đảm bảo sự thống nhất gữa lợi ích chung của cả nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với ích vùng lãnh thổ.
c) Sự phân cấp quản lý.
Là sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước; là sự chuyên giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện rõ rệt của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
- Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.
- Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng có hiệu quả như cấp dưới.
Phân cấp quản lí giữa các cấp không phải là một công việc đơn giản mà đòi hỏi rất nhiều yếu tố. Chính bởi vậy,việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lí luôn phải có sự cân nhắc kĩ lưỡng, tránh đưa ra quyết định nõng vội, thiếu tính hợp lí.
Ý nghĩa: Sự phục tùng của cơ quan cấp dưới đối với cơ quan cấp trên, của địa phương đối với trung ương ngoài việc đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương còn khắc phục được tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới.
d) Sự hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân. Vì thế nhà nước cần có các chính sách quản lý thống nhất và chặt chẽ, cung cấp và giúp đỡ về vật chất và cả tinh thần nhằm tạo điều kiện để đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là việc thực hiện "dân là gốc" trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Ý nghĩa: Tránh được tình trạng “lấn sân”, “ôm đồm” của cấp trên khi can thiếp quá mức vào công việc của cấp dưới cũng như sự “ỷ lại” vào cấp trên trong giải quyết công việc của cấp dưới. Đồng thời tránh được việc để chồng chéo các công việc lên nhau dẫn đến tình trạng có những việc cần được giải quyết ngay nhưng lại vẫn để đấy, trong đó có những công việc lại khó giải quyết do có nhiều luồng ý kiến khác nhau.
e) Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc hay còn gọi là phụ thuộc hai chiều. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể. Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Ở địa phương, ủy ban nhân dân các cấp trước hết phụ thuộc hội đồng nhân dân cùng cấp (mối phụ thuộc ngang); đồng thời phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc). Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên đã giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo sự thống nhất cho từng hoạt động.
Ví dụ: UBND Tỉnh A một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND Tỉnh A theo chiều ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều dọc.
Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích của lãnh thổ.
Ý nghĩa: Việc quan tâm, thúc đẩy các đơn vị cơ sở là biểu hiện rõ nét nhất của tính dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước, do nó tác động vào đối tượng quản lí một cách trực tiếp, có hiệu quả nhất. Nếu như trong hoạt động quản lí, cơ quan hành chính quan tâm đến sự phát triển của cơ sở tức là đã có sự quan tâm đến thực tế khách quan, từ đó đưa ra các biện pháp quản lí phù hợp với điều kiện khách quan, đảm bảo tính hợp lí trong các biện pháp quản lí đối với toàn bộ bộ máy hành chính nhà nước nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Quan niệm của chủ nghĩa Mac – Lenin về dân chủ như sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin kế thừa những nhân tố hợp lý trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ, đặc biệt là việc tán thành cho rằng: dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao động; dân chủ là quyền lực của nhân dân (hay dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân).
Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước – tức là một chế độ dân chủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước thì khi đó không có “dân chủ chung chung, phi giai cấp, siêu giai cấp”, “dân chủ thuần tuý”. Trái lại, mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ có các kiểu dân chủ: chế độ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân chủ vô sản (hay dân chủ xã hội chủ nghĩa). Riêng chế độ phong kiến là chế độ quân chủ, (rồi “quân chủ lập hiến”) không phải là chế độ dân chủ, nhưng những nhu cầu dân chủ, những biểu hiện dân chủ trong nhân dân, trong xã hội, thậm chí ngay cả trong một số triều đình phong kiến... của xã hội phong kiến vẫn có. Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn với tư cách một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị.
Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ còn với ý nghĩa là một hình thức nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử, bãi miễn